Sunday, March 3, 2013

Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (2)

Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (2) – Chiến trận


Tiếp theo phần 1
1.- kế hoạch hành quân
Về phía quân Thanh (thế thủ): Đoàn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị dẫn đầu đến Thăng Long ngày 20 tháng 11 năm mậu thân (1788). Sau khi phong vương cho Lê Chiêu Thống (19-12-1788), Tôn Sĩ Nghị sắp đặt việc đóng quân quanh thành, từ Thăng Long đến Hà Hồi (huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, Hà Đông), lập đồn trại cách khoảng từ đồn nọ đến đồn kia, đặt súng đại pháo, và chôn địa lôi bên ngoài. Ngoài ra, họ Tôn lập thêm ba căn cứ bảo vệ Thăng Long ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết (huyện Thanh Liêm, Hà Nam), ở làng Nhật Tảo huyện Duy Tiên (Hà Nam) và ở Ngọc Hồi thuộc huyện Thanh Trì (Hà Đông).
Trong khi đó, đoàn quân Vân Nam do Ô Đại Kinh lãnh đạo đóng về phía tây bắc Thăng Long, hướng Phú Thọ, Sơn Tây. Khi được tin đồn Ngọc Hồi thất thủ, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy, thì đoàn quân nầy vội vàng rút lui và trở về Vân Nam an toàn.
Như thế, sau khi tạm chiếm Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị chỉ mới lo việc phòng thủ các vùng chiếm đóng, chủ yếu là Thăng Long và các khu vực phụ cận, chứ chưa nghĩ đến việc tiếp tục thế công, tiến xuống phía nam tiêu diệt nhà Tây Sơn.
Vua Chiêu Thống và quần thần nhà Lê nóng lòng mở cuộc phản công đánh Tây Sơn, nhưng Tôn Sĩ Nghị vẫn chậm rãi vì lúc đó sắp đến lễ Tết nguyên đán âm lịch cổ truyền của người Việt và người Hoa. Lý do chính được các tài liệu mô tả là họ Tôn và quân Thanh ham hưởng thụ, trác táng và say sưa trong những ngày đầu chiếm đóng (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, tập san Sử Địa 9-10, tr. 221), nhất là khi nhận được thư trá hàng của vua Quang Trung. “Lời lẽ trong thư rất nhũn nhặn, khiêm tốn” viết từ Thọ Hạc (Thanh Hoa) (Cương mục, bd. tập 2, sđd. tr. 845) khi nhà vua tạm đóng quân ở đó khoảng đầu tháng 12 âm lịch.
Đặc biệt hơn nữa là khi vua Quang Trung đến Hà Hồi, thì có một viên tướng Thanh tên là Đô Khou Coung đến yêu cầu vua Quang Trung chọn một trong hai điều kiện: hoặc ra quy hàng, hoặc sửa soạn giao chiến vào ngày mồng 6 tháng giêng năm mậu thân (31-1-1789). (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, tập san Sử Địa 9-10, tt. 223-224.)
Ngoài ra, tại Thăng Long quân Thanh công khai kêu gọi dân chúng ở kinh thành đến mục kích tại chỗ trận chiến sắp xảy ra mà quân Thanh tin tưởng sẽ bắt được toàn bộ quân Tây Sơn. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Sử Địa 9-10, tt. 223-224.) Đáp lại, vua Quang Trung lặng lẽ gấp rút hành động, khiến quân Thanh không kịp trở tay.
b) về phía lực lượng Tây Sơn (thế công): Chiến thuật hành quân sở trường của vua Quang Trung là tấn công bất ngờ và thần tốc. Do đó, ngay sau lễ đăng quang và duyệt binh ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), nhà vua tức tốc dẫn quân bắc tiến.
Di chuyển trong bốn ngày, lực lượng Tây Sơn dừng lại tại Nghệ An ngày 29 tháng 11 (âm lịch). Tại đây, vua Quang Trung mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đến hội kiến. Nguyễn Thiếp (1723-1804) là một nhân sĩ nổi tiếng, người làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn, xứ Nghệ An. Trong cuộc gặp gỡ, nhà vua bàn luận với Nguyễn Thiếp kế hoạch hành quân. Nguyễn Thiếp nói: “Người Thanh ở xa tới, mệt nhọc, không biết tình hình khó dễ thế nào, thế nên chiến thủ thế nào. Và nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp đi thì không ngoài 10 ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó.” (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr 1052.)
Lời bàn của Nguyễn Thiếp rất hợp ý với vua Quang Trung. Lo việc tuyển quân mười ngày ở Nghệ An và Thanh Hoa, vua Quang Trung lại tiếp tục dẫn quân ra đi ngày mồng 10 tháng chạp (5-1-1789). Ngày 20 tháng chạp (15-1-1789), nhà vua đến Tam Điệp. Nơi đây, lực lượng Tây Sơn ở Bắc hà do đại tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy đang đợi nhà vua. Ở lại Nghệ An và Thanh Hoa mười ngày, nghỉ ngơi tại Tam Điệp cũng mười ngày, vua Quang Trung lại mở cuộc tấn công ào ạt gấp rút trong sáu ngày sau đó để thanh toán chiến trường, chứng tỏ chắc chắn vua Quang Trung đã được tin tình báo từ Thăng Long cho biết cáo thị của quân Thanh về việc động binh xuất hành năm mới vào ngày mồng 6 Tết.
Nhà vua đưa ra kế hoạch tấn công như sau: Thứ nhất, đại tư mã Ngô Văn Sở và nội hầu Phan Văn Lân làm tiên phong. Thứ hai, đô đốc Lộc và đô đốc Tuyết cầm thuỷ binh vượt biển, đi vòng lên phía bắc, vào sông Lục Đầu, đô đốc Tuyết ở lại Hải Dương, để tiếp ứng, đô đốc Lộc tiến thẳng lên phiá bắc, tới Yên Thế để chận đường rút lui của quân Thanh. Sông Lục đầu là khúc sông Thái Bình, giáp giới Bắc Ninh và Hải Dương, là nơi tập trung 3 sông Nguyệt Đức (Đuống), Nhật Đức (Thương) và sông Cầu. Thứ ba, đô đốc Bảo và đô đốc Mưu (có sách chép là Long) lãnh tượng binh và kỵ binh đi đường bộ, vượt núi, tấn công các mục tiêu từ Hà Đông đến Thăng Long. Thứ tư Hô Hổ Hầu (không biết họ tên) chỉ huy hậu quân, lo việc đốc chiến. Thứ năm vua Quang Trung chỉ huy trung quân nhắm thẳng Thăng Long trực chỉ. Kế hoạch hành quân của vua Quang Trung chứng tả nhà vua rất am tường địa hình đất Bắc lúc đó.
2.- Diễn tiến chiến cuộc
Trận Sơn Nam: Ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân, tuyên bố ăn Tết trước khi lên đường, hẹn ngày mồng 7 năm mới, sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc mừng chiến thắng. (HLNTC hồi thứ 14, bd. tập 2, sđd. tr. 182.)
Tối hôm đó (30 Tết), quân Tây Sơn vượt sông Giản (Giản Thủy) ở Ninh Bình. Đến Sơn Nam, trấn thủ Hoàng Phùng Nghĩa (có sách chép Lê Phùng Nghĩa), tướng của vua Lê Chiêu Thống, bỏ chạy. Các toán thám tử của quân Thanh đều bị quân Tây Sơn chận bắt giết sạch, nên tin tức không lọt về Thăng Long. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 143.)
Trận Hạ Hồi: Vua Quang Trung thúc quân tiếp đến Hà Đông. Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (28-1-1789), nhà vua cho quân vây kín đồn Hà Hồi (huyện Thường Phúc, Hà Đông), rồi ra lệnh các tướng đặt loa hô lớn; quân sĩ đồng thanh đáp ứng vang trời, làm cho quân trong thành nghe lớn tiếng, sợ hãi xin hàng.
Trận Ngọc Hồi: Sau Hà Hồi, lực lượng Tây Sơn đến Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì) sáng sớm mồng 5 Tết (30-1-1789). Đây là phòng tuyến chính của quân Thanh để bảo vệ Thăng Long. Vua Quang Trung biết quân Thanh phòng thủ ở đây khá kiên cố, trên thành có đại bác và chung quanh thành có địa lôi (mìn = landmine) bảo vệ.
Nhà vua sắp đặt cách tấn công như sau: Đi đầu là tượng binh gồm 100 thớt voi to khỏe (theo Cao Tông thực lục), trong đó có một số voi trang bị súng thần công (theo Thánh vũ ký), vừa bộ chiến tấn công, vừa phá thế trận địa lôi bao quanh thành Ngọc Hồi, vừa dùng súng phá thành. Sau tượng binh là toán cảm tử xung phong.
Theo Hoàng Lê nhất thống chí, vua Quang Trung cho lấy 60 tấm ván, ghép ba tấm thành một bức lớn, bện rơm (ngọn cây lúa bị cắt khi gặt) thấm nước bao bọc ở ngoài, 10 người khiêng một bức, tất cả có 20 bức đi trước. (HLNTC, bd. tập 2, sđd. tr. 183.) Theo sau mỗi bức ván lớn làm mộc che là 20 quân sĩ mang đầy đủ võ khí, dàn hàng ngang tiến tới. Theo Cao Tông thực lục, vua Quang Trung không dùng ván, mà dùng rạ (thân cây lúa còn lại sau khi gặt), bó thành bó tròn lớn làm mộc, lăn chạy trước, theo sau là khinh binh tấn công rất dũng mãnh. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 144.)
Cuộc tấn công đồn Ngọc Hồi khai diễn sáng sớm mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-1-1789). Trong thành, quân Thanh bắn súng ra dữ dội, nhưng quân Tây Sơn nhất quyết thúc voi tiến tới, dùng súng đại bác phá hủy thành. Kỵ binh của quân Thanh tiến ra khỏi thành gặp tượng binh của Tây Sơn, bị voi trận tấn công, liền hoảng sợ bỏ chạy. Thành bị phá, quân Tây Sơn tràn vào thành đánh cận chiến. Quân Tây Sơn rất thiện nghệ về cận chiến, chia quân Thanh thành từng toán nhỏ, rồi tiêu diệt. Quân Thanh chết rất nhiều. Số quân Thanh bỏ chạy bị chính địa lôi của họ nổ làm cho thiệt mạng. Những kẻ thoát được, lại bị cánh quân Tây Sơn do đô đốc Bảo chỉ huy, từ hướng Đại Áng tiến lên đánh đuổi tiếp.
Dưới đây là hình ảnh vua Quang Trung trong trận chiến Ngọc Hồi ngày mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu do một người Tây phương lúc đó chạy loạn vì chiến cuộc, chứng kiến và kể lại.
Gò Đống Đa
Gò Đống Đa
“Ngày 30-1 [mồng 5 tháng giêng âm lịch], Quang Trung rời Kẻ Vôi [Hà Hồi] trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiến đấu không hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều sĩ quan và binh lính Trung Hoa làm rất nhiều người chết về tay ông. Ông luôn mồm hô xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu.” (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 224.)
Trận Đống Đa: Sau khi hạ đồn Ngọc Hồi, quân Tây Sơn tiếp đánh các đồn quân Thanh ở Văn Điển (Thanh Trì, Thường Tín, Hà Đông), Yên Quyết (ngoại thành Hà Nội). Quân Thanh thiệt hại nặng, đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh đều tử trận.
Ngoài ra, một cánh quân Tây Sơn khác đến vây Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn (gò Đống Đa) ở Khương Thượng (ngoại ô Thăng Long). Sau một hồi chống cự quyết liệt, thế quân Thanh yếu dần, lại không được tiếp ứng. Sầm Nghi Đống biết không có cách gì thoát thân, liền thắt cổ tự tử trên cây đa. Binh sĩ dưới quyền Sầm Nghi Đống đều tử trận. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 225.)
3.- kết quả
Được tin đồn Ngọc Hồi thất thủ sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, Tôn Sĩ Nghị sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng Phan Khải Đức (người Việt, trấn thủ Lạng Sơn đầu hàng quân Thanh) đi quan sát tình hình.
Liền trưa hôm đó, quân Tây Sơn xuất hiện tại Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp và thắng yên cương, đã vội lên ngựa bỏ trốn cùng vài kỵ binh, bỏ lại lại ấn quân, sắc thư, cờ tiết… (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Nxb. Tân Việt in lần thứ 7,tt. 374-375.)
Sau khi qua khỏi cầu nổi Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt đứt cầu nổi. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 145.) Đây là người Thanh tự thú, chứ các sách Việt như Cương mục (bd. tập 2, sđd. tr. 847), Hoàng Lê nhất thống chí, (bd. tập 2, sđd. tr. 186) đều viết là cầu phao bị gãy. Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về hướng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Số người chết đuối nhiều không thể đếm hết được.
Lê Chiêu Thống, lúc bấy giờ có mặt trong doanh trại Tôn Sĩ Nghị, liền chạy theo họ Tôn, chỉ kịp sai người về cung hộ vệ thái hậu cùng hoàng tử vượt sông. Em vua là Lê Duy Chỉ đưa hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu đã bị chặt đứt, không qua sông được, phải bỏ trốn về hướng tây.
Ô Đại Kinh đóng bản doanh ở Phú Thọ (lúc đó thuộc Sơn Tây), được tin Tôn Sĩ Nghị thất trận, nhờ một cựu quan nhà Lê tên là Hoàng Văn Thông hướng dẫn rút lui trở về lại Vân Nam.
Theo Thánh vũ ký, khi chạy về tới Trấn-nam quan, Tôn Sĩ Nghị “bỏ hết ngoài cửa quan lương thực, khí giới thuốc súng vài mươi vạn (cân). Quân ta [Thanh] và ngựa trở về không đầy một nửa.” (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.) Đó là sự ghi nhận của sử liệu Trung Hoa.
Như thế, nếu cánh quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị lãnh đạo đi vào từ biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn thấp nhất khoảng 10,000 cùng 10,000 trợ thủ theo sử liệu Trung Hoa như đã trình bày ở trên, và quân Thanh trở về không đầy một nửa, thì người Thanh (quân và phu) thiệt hại tối thiểu khoảng 10,000 người kể cả một số tướng lãnh nổi tiếng là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh, Sầm Nghi Đống.
Theo ghi nhận trong nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ về những sự kiện đáng ghi nhớ xảy ra trong địa phận giáo hội từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789, thì riêng trận Ngọc Hồi – Thăng Long, quân Thanh chết khoảng 10,000 người, trong đó ít nhất một phần ba bị chết đuối vì chen nhau qua cầu khi bỏ chạy và sau đó cầu bị chặt gãy. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 224.) Số liệu nầy trùng hợp với số liệu của Ngụy Nguyên, người nhà Thanh, trong sách Thánh vũ ký. (Hoàng Xuân hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.) Ngoài ra, tại Đống Đa, quân Thanh tử trận khoảng 1,000 người. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, bđd. tr. 225.)
Trong số quân Thanh mất tích hay tử trận, có một số đã bỏ trốn. Theo thư của vua Quang Trung gởi sang nhà Thanh do Hô Hổ Hầu đưa qua Trung Hoa, khoảng 800 người đã ra trình diện hay bị bắt, và về sau được vua Quang Trung ra lệnh trả về Trung Hoa. (ĐNCBLT, bd. tập 2, tr. 521.)
Về phía Đại Việt, không có sử liệu Việt nào viết về sự thiệt lại của lực lượng Tây Sơn. Cũng theo nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, thì lực lượng Tây Sơn thiệt mất khoảng 8,000 quân trong trận Ngọc Hồi -Thăng Long, trong đó có một vị chỉ huy cao cấp là Đô đốc Lân (nhưng không phải Phan Văn Lân) mà vua Quang Trung rất thương tiếc. Nhà vua đã cử hành tang lễ vị đô đốc nầy rất trọng thể trong khi cuộc chiến còn tiếp diễn. (Nhật ký của Giáo hội Thiên Chúa giáo Bắc kỳ, Đặng Phương Nghi dịch, Sử Địa 9-10, tr. 225.)
Kết quả là lực lượng Tây Sơn đã toàn thắng oanh liệt trong mùa xuân năm Kỷ dậu 1789.
(Còn tiếp)
Toronto 12-2-2013
©Trần Gia Phụng

Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (1)

Ngày xuân bàn chuyện Đống Đa (1) – Tương quan lực lượng


Trận Đống Đa ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789) là một trong những chiến công oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam trong lịch sử chống bọn bành trướng bá quyền phương Bắc. Nhân dịp xuân về, xin hãy cùng nhau ôn lại trang sử hào hùng của dân tộc trong mùa xuân xưa.
1.- lực lượng nhà Thanh
Theo Cao Tông thực lục, cánh quân Lưỡng Quảng do tổng đốc Tôn Sĩ Nghị trực tiếp điều động là một vạn người (10,000). Số quân nầy chia thành hai khi đến Lạng Sơn. Hai ngàn (2,000) người ở lại Lạng Sơn, còn 8,000 người tiếp tục tiến đánh Thăng Long. (Cao Tông thực lục, bản dịch của Hồ Bạch Thảo, quyển thượng, New Jersey: 2004, tr. 47.)
Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên (bản dịch của Hoàng Xuân Hãn, trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn [hay Hoàng Xuân Hãn toàn tập], tập 2), trong chương “Càn Long chinh vũ An Nam ký” cũng chép lại như thế. Ngụy Nguyên (Wei Yuan, 1784-1857), tác giả cuối đời nhà Thanh viết Thánh vũ ký trình bày các vấn đề quân sự và ca ngợi các chiến công của nhà Thanh
Cũng theo Cao Tông thực lục, đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh, ở phía tây, đem 5,000 quân qua đường Tuyên Quang.(CTTL bản dịch, sđd. tr. 67). Như thế, theo chính sử Trung Hoa, tổng số quân Thanh cả hai cánh là 15,000 người. Tài liệu nầy không nhắc đến số quân do Sầm Nghi Đống ở Điền Châu lãnh đạo, mà các tài liệu Trung Hoa không cho biết đi khi nào và bao nhiêu quân. Ngoài ra, trong cuộc viễn chinh lần nầy của nhà Thanh, Tôn Vĩnh Thanh chỉ huy đoàn tiếp liệu chuyển vận lương thực cũng rất đông đảo, có thể khoảng 10,000 người.
Đáng chú ý là trước đó, trong cuộc viễn chinh ở phía tây tỉnh Tứ Xuyên (Trung Hoa) vào năm 1776, vua Càn Long nhà Thanh đã đưa tám vạn (80,000) quân để đánh hai bộ lạc chỉ có khoảng 150,000 dân. (Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc tập 2,Tp.HCM: Nxb.Văn Hóa,1997, tr. 198). Vua Thanh biết Đại Việt đông dân hơn nhiều, nên không thể chỉ gởi hơn một vạn quân (10,000) mà thôi.
Trượng Quang Trung tại Bình Định
Trượng Quang Trung tại Bình Định
Sách Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 13, tóm tắt đại lược hịch của Tôn Sĩ Nghị, có viết rằng họ Tôn “điều động năm mươi vạn quân thẳng tới La thành [Thăng Long]…” (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Hà Nội: bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, Nxb. Văn Học, 1987, tr. 153.)
Năm mươi vạn nghĩa là 500,000 quân. Con số nầy lớn quá, do người Thanh tuyên truyền kể thêm, để binh sĩ hăng hái ra đi. Trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa” của vua Quang Trung, do Ngô Thời Nhậm soạn có đoạn viết: “Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời thế làm việc cách mệnh, dùng binh lính bình định thiên hạ. Viên Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị các người, tài đong đấu ra, nghề mọn thêu may, không biết những điều chủ yếu trong việc dùng binh, vô cớ đem 29 vạn quân ra khỏi cửa quan, vượt núi trèo đèo, vào sâu hiểm địa, xua lũ dân vô tội các ngươi vào vòng mũi tên ngọn giáo. Đó đều là tội của viên Tổng đốc nhà các ngươi.” (Ngô Thời Nhậm, “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa”, trong Hàn các anh hoa, trong sách Ngô Thời Nhậm tác phẩm, do Mai Quốc Liên cùng một số tác giả phiên dịch, Hà Nội: Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, Nxb. Văn Học, 2001, tr. 190.)

Con số hai mươi chín vạn viết trên đây tuy do Ngô Thời Nhậm, người trong cuộc, đưa ra trong một văn thư có tính tuyên truyền, thì cũng chưa hẳn sát với thực tế. Có tài liệu thì viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt lên khoảng hai mươi vạn tức 200,000 quân, (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, Đại Nam, Hoa Kỳ, tái bản không đề năm, tr. 159 và 185.)
Cả hai số liệu nầy về hai phía Việt cũng như Trung Hoa đều cần phải nghiên cứu lại. Theo tâm lý thông thường, do tinh thần yêu nước, sử liệu Trung Hoa thường hạ số liệu quân đội viễn chinh xuống, để khi chiến thắng thì chiến thắng có giá trị, vì đem ít người mà vẫn thắng trận, còn khi thất bại thì thất bại không đáng kể, vì đem ít quân nên mới thất bại. Điều nầy có thể thấy rõ trong Cao Tông thực lục, là bộ chính sử nhà Thanh, chép thời vua Càn Long.
Ngoài ra, lính Trung Hoa thường đem theo vợ con và nhiều trợ thủ. Trong “Tám điều quân luật” trước khi quân Thanh xuất chinh năm 1788, Tôn Sĩ Nghị đã thông báo như sau trong điều thứ 8: “Lần nầy hành quân xa xôi qua biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu dụ trước cho mọi người biết…”(HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tt. 152, 179.)
Như thế, nếu e ngại số liệu 200,000 quân Thanh bị thổi phồng thì chắc chắn số liệu của Cao Tông thực lục gồm 10,000 của Tôn Sĩ Nghị và 5,000 của Ô Đại Kinh vừa thiếu sót vừa bị giảm thiểu,và giảm thiểu đến mức độ nào thì không có cơ sở để xác minh, nhưng với dân số đông đúc của Lưỡng Quảng, thì chắc chắn đạo quân nầy phải đông hơn rất nhiều.
Nếu theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh sang Đại Việt tối thiểu cộng lại là 15,000 người; và nếu mỗi quân nhân được quyền đem theo một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị), thì số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 30,000. Cần chú ý là các tướng lãnh và sĩ quan Thanh chắc chắn mỗi người đem theo hơn một người phu. Ngoài ra, còn có đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩnh Thanh. Đoàn nầy không thể dưới 10,000 người vì theo ý kiến của Tôn Sĩ Nghị và Tôn Vĩnh Thanh, nếu quân Thanh quyết định từ Thăng Long tiến vào đánh Quảng Nam thì phải cần đến mười vạn (100,000) phu trạm. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 123.) Đoạn đường từ Nam Quan về Thăng Long dài khoảng 1/10 đoạn đường từ Thăng Long đến Quảng Nam, vậy số phu cũng phải khoảng một vạn (10,000) người. Ba số liệu nầy cộng lại đã được 40,000 người. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế phải cao hơn nữa.
Có một điểm cần phải nhấn mạnh, là các bộ sử Việt cũng như Hoa trước đây, đều viết rằng quân Ô Đại Kinh từ Vân Nam vào Tuyên Quang, đến Phú Thọ và chưa đến Thăng Long cũng như chưa tham chiến.
Trong sách của mình, tác giả Hoa Bằng viết: “Thấy Nghị thua chạy, đạo binh Vân, Quý (Vân Nam, Quý Châu) vừa đến Sơn Tây, phải vội tìm đường tháo về.” (Hoa Bằng, sđd. tr. 197.) Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên viết: “Còn quân của Ô Đại Kinh tại Vân Nam thì chưa đến nơi.” ([Hoàng Xuân Hãn toàn tập], tr. 1343.)

Thật ra, theo những báo cáo của Ô Đại Kinh và Tôn Sĩ Nghị gởi về triều đình Trung Hoa được ghi lại trong Cao Tông thực lục, thì hai cánh quân nầy đã gặp nhau tại Thăng Long vào ngày 21-11, ngay sau khi Tôn Sĩ Nghị chiếm được Thăng Long.(Cao Tông thực lục, bd. tt. 131, 136). Tiến quân chiếm đất từ biên giới phía tây đến tận Thăng Long thì rõ ràng đạo quân Vân Quý của Ô Đại Kinh đã tham gia chiến trường nước ta. Hơn nữa, khi phát thảo kế hoạch tấn công Nguyễn Huệ, Ô Đại Kinh được phân công tiếp tục tiến thẳng xuống đánh Quảng Nam. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 112.)
Nguồn tài liệu thứ ba về chiến tranh Việt Hoa năm 1789 do người Tây phương có mặt ở nước ta đưa ra. Các tài liệu nầy cũng đưa ra những con số khác nhau: Thứ nhất là nhật ký của Hội Truyền giáo ở Bắc Kỳ về những sự kiện ở trong địa phận Giáo hội Bắc Kỳ từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789. Liên quan đến số lượng quân Thanh, tài liệu nầy gồm hai phần: Thứ nhất, khi quân Thanh chưa đến, vào ngày 21-10-1788, có lời đồn rằng nhà Thanh gởi 300,000 quân thủy bộ sang giúp Lê Chiêu Thống. Thứ hai, Tôn Sĩ Nghị làm lễ phong vương cho Lê Chiêu Thống (19-12-1788), tức lúc đó quân Thanh đã vào đất Việt, tài liệu nầy cho biết số quân Thanh là 280,000 người (28 vạn), một nửa đóng trong thành phố, một nửa đóng ở bên kia sông. (Nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ về những sự kiện đáng ghi nhớ xảy ra trong địa phận giáo hội từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789, do Đặng Phương Nghi dịch, tập san Sử Điạ số 9-10, Sài Gòn, 1968, trong bài “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ”, tt. 213, 216.)
Nếu một nửa đóng trong thành phố, nghĩa là có 14 vạn quân Thanh trong thành Thăng Long, thì thành Thăng Long lúc đó có đủ sức chứa, chỗ ở và nuôi ăn hàng ngày cho quân Thanh không? Ngoài ra, theo tài liệu Trung Hoa, quân Thanh mất hết một nửa khi trở về nước, vậy mất hết khoảng 14 vạn (so với 28 vạn khi ra đi), vừa chết vừa mất tích, trốn chạy thì con số nầy có thích hợp trong một cuộc chiến bằng võ khí chưa tối tân? Tuy nhiên con số 28 vạn của tài liệu nầy gần với con số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đã viết trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa”.
Tài liệu Tây phương thứ hai do J. Barrow viết. Ông nầy đến nước ta năm 1792, ba năm sau chiến tranh. Trong hồi ký của mình, ông viết rằng số quân Thanh là 100,000 người. (Theo Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn tập 1, Hà Nội, Nxb. Thế Giới, 1999, tr. 674. Phan Huy Lê theo sách của J. Barrow, A Voyage to Cochinchina in the year 1792 and 1793, London: 1806, tr. 252.)
Tài liệu Tây phương thứ ba của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) đến Đàng Ngoài khoảng năm 1790, viết trong hồi ký xuất bản ở Paris năm 1812 rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40,000 người và bị giết tại trận khoảng 20,000 người.(Theo Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn tập 1, Hà Nội, Nxb. Thế Giới, 1999, tr. 674. Phan Huy Lê theo sách État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho par M. De la Bissachère, Paris, 1872, tt. 169-170.) Giáo sĩ De la Bissachère ở lại Đàng Ngoài cho đến năm 1798, nên có thể ông thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt. (Tiểu sử của giáo sĩ De la Bissachère )
Trước khi dẫn quân qua Đại Việt, theo lệnh của Thanh Càn Long, Tôn Sĩ Nghị phát hịch kêu gọi người Hoa đang làm việc trong các xưởng mỏ (có sách gọi những người nầy là “xưởng dân”) ở nước Việt hưởng ứng chiến dịch tấn công của quân Thanh và “hứa cho ân thưởng và cho miễn thuế để họ giúp sức đánh giặc… Các dân đinh [người Hoa] ở các công xưởng bên An nam nhận được hịch văn phủ dụ của Tôn Sĩ Nghị và nghe tin thiên triều cấp cho lương thực thì đều vui mừng, hăng hái tình nguyện xung phong giết giặc.” (Phan Huy Lê trích dịch hịch “Phủ dụ đầu mục”, sđd. tr. 668.)
Lúc đó người Hoa tập trung nhiều ở các xưởng mỏ phía tây bắc và các thị trấn ven biển phía đông bắc. Số người nầy không nhiều, có thể làm nội ứng hay tình báo, lúc quân Thanh mới xâm nhập vào nước ta. Phía đông nam Thăng Long, nơi sẽ xảy ra chiến trận, ít người Hoa sinh sống.
Không có tài liệu nào đặc biệt về võ khí của quân Thanh. Trong “Tám điều quân luật”, Tôn Sĩ Nghị tự tin súng ống của quân Thanh hơn hẳn súng “phun lửa” của quân Tây Sơn (điều thứ 5), nhưng họ Tôn tỏ ra rất sợ tượng binh (voi trận) của quân Tây Sơn. Điều nầy chứng tỏ ông ta có nghiên cứu về quân đội Tây Sơn. Ông đã dạy cho lính Thanh cách đối phó với tượng trận (điều thứ 4). Quân Thanh có đoàn kỵ binh thiện chiến nhưng không có tượng binh vì không thể đưa voi trận từ Trung Hoa, vượt núi rừng biên giới để qua nước Việt.
2.- lực lượng nhà Tây Sơn
Ngay sau lễ đăng quang ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), vua Quang Trung xuất quân cùng ngày hôm đó, lực lượng không được rõ. Ông đến Nghệ An ngày 29 tháng 11 (26-12-1788). Nhà vua dừng quân tại đây để tuyển thêm tân binh ở vùng Thanh Hoa (sau đổi thành Thanh Hóa năm 1841), Nghệ An và sắp đặt lại đội ngũ. Trong cuộc tuyển binh cấp tốc nầy, cứ ba suất đinh lấy một người. Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì “… chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ.” (HLNTC, bd. tập 2, tr. 179.)
Theo Cương mục, “khi qua Nghệ An và Thanh Hoa, [Quang Trung] lấy thêm quân lính đến 8 vạn người…” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hà Nội, bản dịch tập 2, 1998, tr. 845.) Theo Liệt truyện, tổng cộng số lính trước sau khoảng hơn mười vạn quân (100,000) và mấy trăm con voi chiến. (Đại Nam chính biên liệt truyện, Huế: bản dịch của Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr. 517.) Các số liệu nầy có thể đã được thổi phồng đôi chút, nhưng ở mức độ nào thì cũng không có cơ sở để xác minh. Cần chú ý là lúc đó dân số vùng từ Quảng Nam ra Thanh Hoa trong vùng cai trị của vua Quang Trung khoảng gần một triệu người (và riêng Bắc hà khoảng năm triệu rưỡi người). (Li Tana, Nguyễn Cochinchina, Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, New York: Cornell University, 1998, tr. 159.)
Vua Quang Trung chia quân làm hai hạng: hạng thiện chiến gồm lính Thuận Quảng (Thuận Hóa và Quảng Nam) đã được huấn luyện lâu ngày và tham dự nhiều chiến trận; hạng tân tuyển gồm tân binh Thanh Nghe Thanh Hoa và Nghệ An)ä. Quân Thuận Quảng chia làm 4 doanh: tiền, hậu, tả, hữu, và dùng quân Thanh Nghệ làm trung quân.
Võ khí và sắc phục quân Tây Sơn được một tác giả đồng thời với sự kiện, mô tả lại trong Lê quý dật sử như sau: “Tây Sơn cho quân mặc áo màu, phần nhiều là màu đỏ tía, trên đỉnh nón mũ đính lông chiên đỏ, lại thường mặc áo gấm màu. Binh khí của họ thường dùng hỏa tiễn hỏa sào buộc trên đầu ngọn giáo, gọi là hỏa hổ [tức súng phun lửa]…” (Khuyết danh, Lê quý dật sử [chữ Nho], Phạm Văn Thắm dịch, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1987, tr. 77.) Trong Đại Nam quốc sử diễn ca, các tác giả Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái (thế kỷ 19, thời vua Tự Đức) đã tả sắc phục quân Tây Sơn như sau: “Mão mao, áo đỏ, chật đường kéo ra.”(câu 1830). (Mão mao: mũ lông.)
Điểm đặc biệt của quân đội Tây Sơn, được sách Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên (Trung Hoa) ghi lại là “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”. (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.) Cần chú ý sách Thánh vũ ký là tài liệu Trung Hoa chứ không phải của người Việt để tự ca tụng mình.
Điều nầy có nghĩa là vua Quang Trung phối hợp giữa tượng binh và pháo binh, tạo thành hỏa lực yểm trợ bộ binh khi tấn công. Đội tượng binh ở Thăng Long của vua Lê và chúa Trịnh đã bị Nguyễn Huệ đưa về nam sau cuộc bắc tiến lần thứ nhất năm 1786. (Gabriel Devéria, Histoire des relations de la Chine avec l’Annam-ViệtNam, Paris: Ernest Lebroux, Éditeur, Librairie de la Société Asiatique de l’École des Langues Orientales Vivantes, 1880, tr. 17.) Theo sách Lê quý dật sử, đội tượng binh được vua Quang Trung đem từ Thuận Hóa ra Thăng Long chống quân Thanh. Lương thực hàng tháng của các thớt voi tùy theo trọng lượng từng thớt voi lớn nhỏ.(Lê quý dật sử, sđd. tt. 87, 96.)
Các khẩu đại bác đã được di chuyển theo quân đội Tây Sơn cũng từ Thuận Hóa ra Bắc, vì tại Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã lập đội pháo binh mạnh mẽ Theo Toàn thư, khi ra bắc năm 1593 để chúc mừng vua Lê trở về Thăng Long, Nguyễn Hoàng đã sử dụng những khẩu đại bác dẹp yên các cuộc nổi dậy sau năm 1593. (Ngô Sĩ Liên và nhiều tác giả, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, bd. tập 3, tr. 185.) Sau thời Nguyễn Hoàng, các chúa Nguyễn đã tổ chức lò đúc súng tại Phường Đúc, làng Dương Xuân Thượng, Phú Xuân (gần Long Thọ, Huế ngày nay).
Không có tài liệu nào mô tả những khẩu đại bác thời Tây Sơn, nhưng dựa vào những khẩu đại bác thời nhà Nguyễn (sau thời Tây Sơn), còn sót rải các ở miền Nam, và có thể nhìn thấy trước tòa lãnh sự Pháp ở Đà Nẵng trước 1975 trên đường Bạch Đằng, thì những khẩu đại bác thời nầy nhỏ. Xin đừng so sánh với 9 khẩu thần công to lớn trưng bày trong thành nội Huế vì 9 khẩu đại bác nầy được đúc để trưng bày trước hoàng thành mà thôi. (Theo tin trong nước, ngày 29-6-2004, ngư dân Bình Thuận trục vớt được 3 tấn tiền cổ và một súng thần công dài khoảng 0,85 m. và đường kính nòng súng 0,075 m., nặng khoảng 300 Kg. [vnn-news.com, California 29-6-2004.])
Đại bác nhỏ như chúng ta thấy còn sót lại nầy mới dễ đặt trên lưng voi để ra trận như Thánh vũ ký mô tả. Cách sử dụng đại bác trên lưng voi phải chăng nhà Tây Sơn học được từ người Miến Điện và từ người Xiêm La (Thái Lan)? Chiến sĩ hai nước nầy chuyên sử dụng voi khi ra trận. Nhiều hình ảnh lưu lại cho thấy người Miến và người Xiêm đặt súng thần trên lưng voi, mũi súng hướng về đằng đuôi để khi bắn, voi bớt sợ. Cần chú ý là quân Tây Sơn đã đánh tan quân Xiêm La tại Rạch Gầm và Xoài Mút ở gần Mỹ Tho vào tháng 12 năm giáp thìn (01-1785) và bắt nhiều tù binh Xiêm La.
Dầu sao, chính hỏa lực của các khẩu đại pháo do lực lượng Tây Sơn đem từ Phú Xuân ra Thăng Long, đặt trên lưng voi đã giúp phá vỡ thành trì đồn Ngọc Hồi, đưa đến chiến thắng Đống Đa mùa xuân năm 1789, khiến cho quân Thanh phải sợ hãi nên Ngụy Nguyên mới nhắc lại trong Thánh vũ ký.
Trong tương quan lực lượng giữa hai bên, có một điểm không thể thiếu sót là việc tình báo chiến lược. Sau khi rút lui khỏi Thăng Long, chắc chắn đại tư mã Ngô Văn Sở để lại nhiều điệp viên theo dõi tình hình tiến quân của lực lượng Tôn Sĩ Nghị và báo cáo đầy đủ lại cho các chủ tướng Tây Sơn. Trong khi đó, ngược lại, quân Thanh không có đường dây tình báo, không có người len lõi vào hàng ngũ Tây Sơn,
nên có thể nói là ít hiểu biết về quân đội Tây Sơn, cũng như không nắm vững các hoạt động chuyển quân của lực lượng vua Quang Trung. Chẳng những thế, quân Thanh lại còn kiêu căng, xem thường sức mạnh đối phương.

(Còn tiếp phần 2)
Toronto, 06-02-2013
©Trần Gia Phụng

Friday, March 1, 2013

Lời tuyên bố công dân

Lời tuyên bố công dân


 

Lê G. (Danlambao) - Rồi đây, khi chủ nghĩa tàn bạo này đã qua đi, những sử gia Việt Nam sẽ hân hoan viết vào Việt Sử ký dòng này: Ngày 25.02.2013, đầu xuân Quý Tỵ, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên đã đưa ra Lời tuyên bố công dân kết nối được hàng triệu trái tim của người Việt trong nước và khắp thế giới châm ngòi cho cuộc đấu tranh giữa bạo tàn và thiện lành, giữa độc tài và dân chủ, nhân quyền, giữa lòng tham và tình bao dung, giữa thù hận và yêu thương, giữa rã rời và kết đoàn.
Vì sao tôi dám khẳng định điều đó? Đã có bao nhiêu người đã nằm trong tù, bao nhiêu người đã dũng cảm đấu tranh chống bạo quyền, và bao nhiêu người anh hùng hơn Nguyễn Đắc Kiên. Đúng, mỗi người trong số họ đều có thể là tấm gương sáng và là tinh thần của cuộc đấu tranh. Nhưng không ai trong số họ có lời tuyên bố công dân rõ ràng, mạnh mẽ, khúc chiết như Nguyễn Đắc Kiên:
Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:

Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.

Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước.

Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.

Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.

Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.
Tôi dám khẳng định điều đó vì anh một con người lẻ loi, để chống lại cường hào đã dũng cảm đưa ra lời tuyên bố nói trên trong khi bao nhiêu nhân sỹ trí thức từ trước đến nay cũng chỉ mới đưa ra những thư Kiến nghị và Yêu cầu. Ý chí của anh còn nung nấu mãnh liệt trong bài thơ bi hùng Bởi vì tôi khao khát tự do:
nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù Cộng sản,
ở nơi đó tôi gặp những người ngay,
ở nơi đó đồng loại tôi đang sống.

nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù Cộng sản,
ở nơi đó giam giữ Tự do,
giam giữ những trái tim khao khát Sống.

nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù Cộng sản,
ở nơi đó giam giữ những nhà thơ,
giam giữ kẻ ngủ hoang để thức tỉnh muôn đồng bào vô thức.

bắt nhà thơ giam vào trong ngục tối,
là mở ra ngàn thiên thể Tự do.
bắt Tự do giam vào trong ngục tối,
là mở ra ngàn thơ tứ Con người.

nếu một ngày tôi phải vào tù,
thì chắc chắn là nhà tù Cộng sản,

bởi vì tôi khao khát Tự do.
Lời tuyên bố công dân Nguyễn Đắc Kiên đã đi vào hồn Đất nước, vào lòng dân tộc.
Vậy thì, tất cả chúng ta quên đi thù hận, quên đi ngăn cách, quên đi những mưu toan, quên đi những hèn nhát, quên đi những ích kỷ... để cùng nhau ra lời tuyên bố công dân sau đây (mong Dân Làm Báo phát động phong trào này):
LỜI TUYÊN BỐ CÔNG DÂN

Sát cánh bên Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, chúng tôi những con dân nước Việt Nam cùng ký tên dưới đây để tuyên bố:

  • Chúng tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà chúng tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.

  • Chúng tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước.

  • Chúng tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.

  • Chúng tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.

  • Chúng tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Chúng tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, chúng tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến chúng tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và chúng tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

Hãy chung tay để cho LỜI TUYÊN BỐ CÔNG DÂN này trở thành sợi dây bền vững kết nối hàng triệu triệu trái tim Việt Nam.
Lê G.

Lương tri Việt Nam lên tiếng

Lương tri Việt Nam lên tiếng


**

Đất nước VN đang từ từ thức dậy sau 1 cơn mê CS gần 70 năm. Từ từ từng người 1 gióng lên tiếng nói độc lập của tư duy. Người nghe những tiếng nói độc lập của tư duy này mà cảm thấy sướng va sảng khoái. Vậy những người thốt lên được phải có cảm giác tự chủ mạnh mẽ. Hãnh diện quá VN ơi! hãy tiếp nối nhau tỏ thái độ cũa những con người VN bất khuất.


**


Xin các bác một người một tay, một lời.. Làm sao giúp NĐK và làm sao truyền đạt lời cũa nhà báo này tới toàn dân? mỗi người hảy tận lực trong phạm vi của mình. như loan truyền tin tức tới bà con gần bà con xa, làng xóm, trường học và tất cả mọi tôn giáo, đoàn thể hảy đưa tay ra giúp người, coi như giúp chính bản thân gia đình giòng họ xã hội và đất nước VIỆT NAM, HẢY ĐƯA TIN BẤT CỨ CHỔ NÀO TÀU ĐANG ẨN NÚP TRÊN quê hương, làm sao loan tin ? chẳng hạn viết một tin thật ngắn trên Đồng bạc VN. LOAN TIN TRUYỀN MIỆNG, BẰNG CA DAO TIẾU LÂM MỌI CÁCH.


(ý kiến dân)

***


Bài viết khiến nhà báo Nguyễn Đắc Kiên bị thôi việc


Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng
Nguyễn Đắc Kiên - ...Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư cách. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ “suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước...
*
Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2 đưa phát biểu tại Vĩnh Phúc của TBT ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như sau: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức... Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”(*)
Bằng tất cả sự tôn trọng dành cho người đang đứng đầu một đảng chính trị của VN, tôi xin nói với ông Nguyễn Phú Trọng vài lời như sau:
Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư cách. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ “suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước. Nếu ông và các đồng chí của ông muốn giữ Điều 4, muốn giữ vai trò lãnh đạo, muốn chính trị hóa quân đội, không muốn đa đảng, không muốn tam quyền phân lập, thì đó chỉ là ý muốn của riêng ông và ĐCS của ông. Ông không thể quy kết rằng đó là ý muốn của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, những ý muốn trên chỉ nên xem là của riêng ông TBT Trọng, chưa chắc đã là tâm nguyện của toàn bộ đảng viên cộng sản hiện nay.
Tiếp theo, xin đi vào nội dung, ông nói suy thoái về đạo đức. Tôi muốn hỏi ông, đạo đức của ông đang muốn nói là đạo đức nào? Đạo đức làm người? Đạo đức công dân? Đạo đức dân tộc VN?... Tôi tạm đoán là ông đang muốn nói đến đạo đức người cộng sản của các ông. Vậy, các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản vô đạo đức hết à? Thế ra, những người không theo đảng cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à?
Tiếp theo, xin đi vào nội dung suy thoái chính trị, tư tưởng. Tôi muốn hỏi ông, chính trị, tư tưởng ông đang muốn nói là chính trị, tư tưởng nào? Có phải chính trị, tư tưởng của đảng cộng sản? Vậy ra chỉ có đảng cộng sản của các ông là duy nhất đúng à? Cá nhân tôi cho rằng, không một người có lương tri bình thường nào thừa nhận như thế. Cùng lắm ông chỉ có thể nói với các đảng viên cộng sản như vậy, nhưng ngay cả với các đảng viên cộng sản, ông cũng không thể quy kết tội suy thoái cho họ. Nếu không tin, ông thử đọc lại Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng các ông ban hành xem. Không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng... đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc là suy thoái. Ông đương kim Tổng bí thư ĐCS VN thử đọc lại và nghĩ lại chỗ này xem.
Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:
1. Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.
2. Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước.
3. Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.
4. Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.
5. Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.
Nguyễn Đắc Kiên
Nhà báo, Báo Gia đình & Xã hội
(*) Nguồn: Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2; phần âm thanh và gỡ băng của Anhbasam

Thông tin: Động cơ chuyển hóa xã hội. (phần một)

Thông tin: Động cơ chuyển hóa xã hội. (phần một)


Bảo Giang (Danlambao) - Mãi phải nhìn cuộc sống không một tia sáng đổi thay, vẫn lầm lũi cúi mặt bước qua từng ngày, không một tiếng nói cho ra tiếng nói từ mấy chục năm qua, nhiều người cho rằng: Đất nước ta đã không may, gặp phải thời kỳ thiếu hẳn giai cấp sĩ phu, là giai cấp có tiếng nói bất khuất, uy vũ, làm hoán chuyển, thay đổi bộ mặt xã hội, nhưng lại quá dư thừa một giai cấp cơm áo được gọi là, hay tự cho là “trí thức”, bao gồm những người có học vị cao, nơi quan trường, công đường, những nhà văn, nhà báo, nhà giáo, những người làm thông tin không tim óc... mang hình dạng của những con lươn, con đỉa hơn là hình ảnh của một cây trúc, cây tùng!
Chuyện này có lẽ không sai. Bởi vì khi nhìn lại dòng lịch sử của Việt Nam, người ta dễ nhận ra cái tiết tháo, sĩ khí, vị thế và tiếng nói lẫm liệt của giai cấp trí thức được gọi là sĩ phu của đất nước xuất hiện trong mọi hoàn cảnh. Thời bình, thời loạn, trong quan trường, quân đội hay trong công đường, không nơi nào thiếu tiếng nói đầy uy lực của họ. Đặc biệt, tiếng nói của họ trước sự hưng vong của đất nước có khi còn lấn át cả vua chúa. Điển hình là trường hợp của những vị, xa thì như Ngô Vương Quyền, Nguyễn Trải, Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, anh em nhà Tây Sơn. Gần thì như Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Nguyễn Thái Học... Hay các vị chí sĩ như Cường Để, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đình Diệm. Ở nơi họ là một tiết tháo vì dân vì nước được thể hiện một cách rất rõ ràng, đầy đủ và trung thực. Có thể nói là, chính tiếng nói và hành động tích cực của giới sĩ phu đã làm chuyển hóa toàn bộ xã hội và đã giữ vững được nền độc lập của đất nước mấy nghìn năm qua.
Như thế, nếu giai cấp sĩ phu, với những vị điển hình như trên là niềm tự hào, là tiết tháo của dân tộc, thì những kẻ đối nghịch với họ là Hồ Chí Minh, Lê Chiêu Thống và tập đoàn CSVN ra sao? Liệu có bị coi là những con lươn, những con đỉa vĩ đại, cực độc, gây thảm họa cho đất nước chăng?
Tôi cho là thế. Bởi vì, xét trên tất cả mọi phương diện, mọi đường họ đi qua, mọi việc họ làm, chưa có một người nào, sách vở chân chính nào dám nhìn nhận công lao của họ với đất nước, mặc dù họ đã không ngừng rêu rao, lừa dối cái thành tích chống Pháp hay “đánh cho Mỹ cút”, đem lại độc lập cho đất nước từ mấy chục năm qua (nếu có một chút thì cũng lợi bất cập hại, vì không có HCM Việt Nam vẫn có độc lập sau Đệ nhị thế chiến mà không có CS). Trái lại, khi đem ra cân đo trước ánh sáng, mọi người đều thấy, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã, đang ngày đêm ra sức tàn phá cuộc sống tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam. Mà cuộc tàn phá này không chừa ra bất cứ một khoảng trống nhỏ nào. Trái lại, nó xâm nhập vào trong tất cả mọi lãnh vực, từ tôn giáo, xã hội đến văn hóa chính trị, quân sự. Tệ hơn thế, nó còn đầu độc dân gian bằng luồng thông tin gian trá để đưa đất nước, dân tộc vào vòng nô lệ cho cộng sản Nga Tàu trước kia, và hôm nay là nô lệ cho bành trướng Trung cộng.
Đây hẳn nhiên không phải là lời lẽ một chiều, vô chứng cớ để lên án họ. Trái lại, chính Lê Duẩn TBT đảng CSVN, khi nói đến quan hệ Trung-Việt, đã tuyên bố. “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...” Nghĩa là, chống Mỹ cứu nước chỉ là chiêu bài lừa dối. Thực tế CSVN chỉ là quân đánh thuê cho kẻ thù của dân tộc ở ngay trên đất nước mình. Họ đã không coi Việt Nam là của dân tộc Việt Nam, nhưng là của Tàu của Liên Sô. Kế đến, một người đã quá nửa đời nhúng chàm trong tổ chức CS. Phút cuối đã có may mắn, mở được mắt ra, và nhìn thấy cái bộ mặt giả của chúng rớt xuống. Từ đó, ông ta đã có can đảm của một cá nhân còn bản thể người mà viết ra được một phần của sự thật khi nói về mô hình mà HCM mang vào Việt Nam là: “Theo tôi, ông Hồ có mang về mô hình 'chiếc gông chuyên chính vô sản' đấy chứ” ... ông thực hiện chuyên chính vô sản, chuyên chính độc đảng,...; ông thủ tiêu triệt để tự do báo chí, ông đóng cửa trường Luật. Báo chí và tòa án kém xa thời thuộc địa... Tự do, bình đẳng của công dân không có trong tư duy của ông chủ tịch nước VN Dân chủ Cộng hòa. Rồi ông ta đưa ra kết luận. Theo tôi một nhà lãnh đạo dân tộc mà yêu nước kiểu như vậy thì bằng mười làm hại đất nước, dân tộc, thà ông không yêu nước thì có khi lại là may cho nhân dân.” (Bùi Tín, một vài chuyện đã rõ về ông Hồ, Dân làm Báo, 19-2-2013)
Rồi ai cũng biết, thời của những sĩ Phu, Chí sĩ ra giúp nước, đã kết hoa cho đất nước những danh tướng đầu đội trời chân đạp đất, nói lên cái chí bất khuất kiêu hùng của dân tộc như Trần Bình Trọng, Trần Quang Khải, Lý Thường Kiệt, Lê Lai, Yết Kiêu, Dã Tượng, Lê Sát, Ngô Thời Nhiệm... rồi đến Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Đăng Vĩ, Trần Văn Hai, Ngụy Văn Thà... đã làm nên một Nhà Nam đâu đấy tỏ.
Trong khi ấy, tập thể lươn, đỉa độc kia cũng đẻ ra được những con đỉa như Nguyễn Đăng Thanh, Nguyễn Thanh Tú, Dương Trung Quốc, Lê Phong Lan... những đồ tể Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng... của mùa đấu tố. Rồi những Xuân, Tiềm, Tường, Phan, Đóa, Trinh... của Mậu Thân ở Huế. Hay những tên tuổi như Phạm Văn Đồng, Ung Văn Khiếm với công hàm 1958 về Hoàng Trường Sa. Kế đến là những hiệp thương biên giới để Nam Quan, Quỷ Môn Quan, Bản Giốc, Tục Lãm, Lão Sơn, vịnh bắc bộ thành đất của người. Hay với kế hoạch khai thác bauxite tây nguyên và thuê rừng đầu nguồn để giao tài nguyên của đất nước cho vào tay kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Như thế, làm lãnh đạo và yêu nước theo kiểu con đỉa thì bằng mười làm hại đất nước!
Hại bằng mười, bằng trăm, thậm chí bằng ngàn là vì đất nước không còn giai cấp sĩ phu để cho dân chúng dõi mắt tìm về. Trái lại, từ hệ thống, cơ chế cộng sản chỉ có thể đào tạo và đẻ ra một tập thể gọi là “trí thức”, với đầy vẻ, mang những học vị, nhớn có, bé có, thật có, giả mạo có. Đó là những bằng cấp cốt để khoe ra cái chữ và tranh giành nhau cách phục vụ cho tập thể gian trá cộng sản để vụ lợi cho bản thân, không hề để phục vụ cho quyền lợi của đất nước, của xã hội. Rồi họ trở thành thành viên của hội “trí thức yêu nước”, “hội nhà văn, nhà giáo, nhà báo yêu nước”, thậm chí “công giáo, phật giáo yêu nước”. Chữ yêu nước là lớn, nhưng cộng sản lại định nghĩa một cách rất rõ ràng trước khi mở ra những cái hội như những cái nơm, cái giỏ (rọ) để đơm “trí thức” vào là: Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là yêu đồng bào và tổ quốc Việt Nam. Mà xã hội chủ nghĩa là đồng nghĩa với với bạo lực và thông tin gian dối. Như thế, chính nó xác định rõ thành phần trong cái rọ này là ai và như thế nào? Chắc chắn, nó không hề thuộc về đời sống của nhân dân Việt Nam!
Hoặc giả, họ là đội quân, công an sắt máu của đảng vì đảng, không phải là của đất nước và vì nhân dân, nên không thể có những Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng... Nhưng có Lê Đức Anh, Lê Khả phiêu, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Đăng Thanh, Nguyễn Thanh Tú... cúc cung thờ tầu. Nên xét cho cùng, cũng chẳng lạ gì sau cuộc chiến biên giới với Trung cộng vào năm 1979, những niên trưởng, đồng đội của họ nằm xuống, không được đảng CS cho lập nghĩa trang liệt sĩ chống bành trướng. Trái lại những quân xâm lăng lại được nhà nước xây đài lập bia tưởng niệm, mà họ cũng không dám nói lên tiếng nói của một người đã từng lấy máu xương mà bảo vệ tổ quốc. Hay khi thấy nhân dân oằn mình vì cuộc sống tang thương và nô lệ, những “trí thức” trong các cái nơm, trong cái giỏ kia cứ bình thản tọa hưởng cơm no áo ấm, nhà cao bổng lộc, lo giữ lấy sổ hưu là mồ hôi nước mắt của người dân là đủ. Mà nào có phải chỉ là an nhiên hưởng lộc, nhưng còn đồng lõa bằng nhưng tuyên bố vô ý thức, không trách nhiệm, ngõ hầu hỗ trợ tập đoàn cộng sản tiếp tục áp bức, khống chế toàn dân bằng chế độ thông tin khắc nghiệt, phản nhân tính kiểu tin đồn và tin bịt mắt, bịt miệng từ 80 năm qua.
A. Vai trò của Thông Tin
Một định nghĩa nhỏ: Nếu xe cộ là những phương tiện tốt để di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Hoặc giả, là những phương tiện đưa người ta đến những nơi họ muốn, hoặc không muốn. Theo tôi, Thông Tin là những chuyến xe đem đến cho con người những niềm vui, hạnh phúc, an bình, thịnh đạt... hay là những nỗi tang thương, bất hạnh, máu và nước mắt! Đơn giản hơn, Thông Tin là những động cơ làm hoán chuyển, làm thay đổi cuộc sống không phải chỉ của một nhóm người, nhưng là toàn xã hội. Nó chính là chìa khóa mở của cuộc sống.
B. Các chế độ thông tin dưới thời cộng sản
1. Chế độ tin đồn.
Chuyện kể rằng: Sau ngày khua chiêng đánh trống, dốc toàn lực nhân khẩu trong làng ra đình làng để chào đón đoàn quân chiến thắng trở về, người nào không mừng thì cũng phải giả cười toe toét kẻo bị cán bộ điểm mặt như những buổi học tập về phương cách đón đoàn quân trước đó. Đến hôm sau, cờ quạt biến hết, người trong làng đi ra đi vào như những bóng ma di động giữa ban ngày. Lỡ gặp nhau trên đường, chẳng ai buồn mở miệng chào hỏi thăm nhau đôi câu. Đã thế, còn có đôi mắt như dò xét và tránh né nhau. Đây là câu chuyện bất thường của An Thái chăng?
Không, đây không phải là chuyện bất thường mà nó là cuộc khởi đầu cho một nếp sống mới dưới thời cộng sản. Lúc này, từ làng trên đến xóm dưới, không một ai biết được là tương lai sinh mệnh của làng, của bản thân hay của gia đình mình sẽ ra sao. Tất cả đều nhìn nhau qua những bản tin đồn. Mỗi người nghe được một mẫu tin khác nhau, chẳng biết thật hư thế nào. Cùng góp lại mà run. Bên Hành Thiện, Lục Thủy đã bắt đầu mở hội múa dao, đấu tố. Rồi Thái Bình, Hải Dương nối gót theo sau... Cuộc đấu rất là gay gắt. Nghe nói những người từng là chánh tổng, lý trưởng giàu có đã bị đấu chết và xác còn để nằm phơi ngoài đồng. Phần nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, ao cá, trâu bò đều bị tịch thu. Vợ con họ thì được tự do, muốn ra ngoài đồng hay xuống chuồng trâu cho qua ngày thì tùy ý, nhà nước không cần bận tâm. Bởi lẽ, bác và đảng đã có chủ trương đánh đổ giai cấp, dẹp luôn tôn giáo, đình chùa, nhà thờ, nên Trí Phú Địa Hào phải đào tận gốc trốc tận rễ!
Từ đó, những bản tin đồn cứ vùn vụt tung ra. Nay làng này, mai tổng khác, chỉ toàn là những tin tức về đấu tố và hành quyết giết người, không có lấy một bản tin nào khác, càng làm cho đời sống của người dân thêm lặng lẽ trong sợ hãi. Đến khi chính mắt họ được nhìn thấy những người ngồi ghế quan tòa, chánh án là vỡ mật. Bởi lẽ, rặt là một phường bất hảo, đâm cha chém chú, đầu trộm đuôi cướp, cu trâu cu bò nổi tiếng trong vùng. Nay được bác đảng kết nạp, rồi trao cho cái búa để ra làm quan. Kết quả, quan cán một chữ không biết, nói chi đến đạo lý, nên những người lương thiện khó thoát nạn là điều dĩ nhiên. Phần nạn nhân, chỉ không ngờ là đời họ lại phải chết vì cái bác đảng phản phúc ấy.
Gọi là đảng phản phúc là vì hầu như không có một người nào bị chúng giết mà đã không tham gia, đóng góp công sức, tiền của, gạo thóc cho cuộc gọi là kháng chiến đánh Tây. Có gia đình còn đóng góp cả máu xương của bản thân hay con cái, người thân của mình để giúp chúng cướp chính quyền ở trung ương hay địa phương. Kết quả, họ gánh lấy họa xát thân chỉ vì HCM đánh giá đây là thành phần dân tộc yêu nước. Sẽ là một lực lượng đối kháng mạnh mẽ nhất, hoặc là kẻ thù không đội trời chung với cộng sản. Kế đến, với HCM, có đánh Tây, chống Mỹ là đánh cho Nga cho Tàu, chứ không phải đánh cho Việt Nam, nên không cần thành phần dân tộc yêu nước này. Theo đó, HCM đã “tiên hạ thủ vi cường” hạ xát đối thủ là những nông dân, bằng sách lược hoa mỹ “cải cách ruộng đất” để tiêu diệt tận gốc lực lượng hùng hậu này sau khi cướp được chính quyền. Từ đây, đời sống nông thôn không còn cấp lãnh tạo tại địa phương, họ phải bám víu vào đảng, vào bác, vào cái búa cái liềm trong tay những kẻ bất hảo vừa nên quan, thay vì sống theo tình nghĩa đồng bào, theo tập quán, lệ làng vốn có từ lâu đời sau lũy tre xanh.
Nay đến An Thái, nhưng chẳng còn là an bình, thái hòa một tý nào. Trái lại, người người nhìn nhau bằng đôi mắt trắng với những nhịp tim đập loạn trong lồng ngực. Bởi vì bản tin đã truyền đi. Mỗi tối họ phải tham gia những buổi học tập cách đấu tố giết người. Phải học làm sao cho thật nhuần nhiễn. Ai chưa thuộc, không đủ tự tin kể tội những người từng làm ơn cho mình trước kia thì phải chỉ tay vào cái gốc mít, gốc khế, cái cột, mà xỉa xói, lập đi lập lại những lời của bác, của đảng dạy cho thuộc lòng, hòng khi tới lân ra đấu thì không bị vấp.
Họ được học cách đấu bằng những lời gian dối đến nỗi những gốc cây vô tri còn có thể bị chết đứng, nói chi đến con người như: “mày đã cướp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn bạo....” Tất cả phải được nhuần nhiễn từ cử chỉ cho đến lời nói... đến nỗi một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị chăm sóc hằng ngày. Chị nói với bố “ông có biết tôi là ai không?”. Người cha ngậm ngùi nhìn đứa con rứt ruột của mình và nói: “thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ” (chứng từ của một Giám Mục, trang 383). Những chuyện này, nếu bạn là người dưới 40 tuổi, ít có dịp giao tiếp với những sách vở trước kia ở trong nam hay ở hải ngoại, bạn có thể cho rằng người viết cũng như những phần trích trong cuốn sách kia là không có thật, là giả dối. Tôi xin trân trọng xác định bằng tất cả những hiểu của tôi, đó là những sự thật mà người dân Việt đã phải trải qua. Sự thật như câu chuyện tôi được nghe bà cô kể lại là:
- Bà Đội ơi!
Tiếng bà Mõ Ba lao vào trong nhà trước khi cái bóng của bà hiện diện. Bà đội Lộc vừa mới ngả lưng xuống trên cái phản gỗ, hốt hoảng ngồi bật dây. Ngoài trời tối như mực. Trong nhà, cây đèn dầu vặn nhỏ hết cỡ không đủ soi sáng cho từng khuôn mặt hiện diện.
- Chúng nó lại giết người nữa rồi.
- Ai thế hả bà?
- Ông cai Đáng, bố của thương binh Được. Bà Mõ Ba nói đứt quãng;
- Sao lại như thế?
- Có mà giời biết! Toàn là người mình thôi. Mấy hôm trước là ông Lý Túc, bố của liệt sĩ Chiến, rồi đến ông Tổng Huỳnh, người được tiếng tốt lành trong cả tổng, nhà chỉ có năm sào ruộng vài con trâu, lại là bố của Liệt Sĩ Tự cũng đã bị đấu chết. Khi đấu, họ phao tin đây là những “cường hào ác bá”, là cai đội của lính trong đồn Tây, là người có nợ máu với nhân dân. Thật may là ông cố và ông Đội nhà...
Bà Mõ ba lỡ lời, chợt ngưng lại. Bà đội Lộc như đọc rõ được câu nói dang dở của người đối diện. Bà chẳng lo phần mình, bà nhớ đến Được, người thương binh đã mất một cánh tay và một cái chân quá gối, tự nhiên nước mắt chảy lăn trên má. Bà muốn khóc mà chỉ nghe tiếng nấc nghẹn trong lòng. Bà còn nhớ rõ, sau ngày đón binh trở về, Được chống gậy đến thăm bà. Được kể lại từng chi tiết lúc ông Đội Lộc ra đi và chôn cất ông thế nào. Bà đã xót xa vì câu chuyện, đến khi nhìn lại cảnh tàn tật của người thanh niên ngoài 20, bà không cầm được nước mắt. Hôm ấy, bà đã dốc túi cho anh cái nhẫn độ chỉ vàng, như để cám ơn việc anh đã chôn cất chồng bà. Lúc đầu binh Được không nhận, bà phải nói mãi anh mới vâng mà cầm lấy. Bà những tưởng, nhờ tấm bảng ghi công anh sẽ được yên ủi đôi phần. Nào ngờ có sự thể như hôm nay. Bà cũng nhớ đến ông Cai Đáng, người trước kia ra làm việc với bố chồng của bà... Bà run lên từng chập, không dám nghĩ gì thêm.
- Đúng là quân gian ác, ăn cháo đái bát bà ạ. Chúng đấu người là cường hào ác bá. Mà cường hào ác bá chẳng giết ai. Phần chúng thì bảo là cách mạng mà thật ra là gian ác gấp trăm ngàn lần cường hào ác bá. Bà xem, chả thấy chính quyền nào ép dân đấu tố nhau như thế bao giờ. Chả thấy chính quyền nào buộc dân phải gian dối, vô đạo, bất nhân, bất nghĩa bằng những hành động trái luân thường đạo lý như ra lệnh cho con đấu cha, vợ đấu chồng, anh em, hàng xóm đấu nhau như bây giờ! Thời vô phúc thế mà họ lại bảo là đỉnh cao trí tuệ của bác và đảng đấy!
Tai bà đội Lộc như ù hẳn đi, bà chả còn thiết nghe chuyện gì.
- Nhưng khéo mà binh Được cũng chết với chúng nó bà đội ạ?
- Sao thế? Bà đội Lộc thảng thốt hỏi lại,
Bà Mõ ba, ghé xát bên tai bà đội Lộc: Nghe ông Mõ nhà tôi bảo là binh Được còn giữ hai quả lựu đạn, đang ngồi trong phòng ủy ban, chờ đội về nói chuyện.
Câu chuyện còn dở, có tiếng gió đập mạnh ngoài cửa. Một tiếng nổ như sấm vang dội xóm thôn. Bà Mõ ba thét lên, ôm chặt lấy cái đầu. Sáng hôm sau, có tin đồn toán đi gỡ mìn sau chiến tranh, bất ngờ gặp tai nạn. Rồi chẳng còn ai nhìn thấy thương binh được và chủ tịch ủy ban đâu, nhưng có đội đấu khác được điều về làng sau đó...
Về phần nhà nước. Nhờ đỉnh cao trí tuệ của “bác và đảng”, mà từ sau ngày cướp được chính quyền, chế độ tin đồn, tin bịt mắt đã hoàn toàn bao phủ trên miền bắc. Nó đã là định chuẩn cho cuộc sống của người dân. Nó trở thành một mệnh lệnh, được tụng ca từng giờ từng phút, từ ngày này qua ngày khác để biến thành một mệnh lệnh mà mọi người phải tuyệt đối tuân thủ, dù chấp nhận hay không chấp nhận nó. Nó đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của con người. Từ hy vọng sang thất vọng. Từ an vui, sang lo lắng. Từ ưu tư ra sợ hãi. Từ hăng hái tích cực thành thụ động. Từ tử tế ra lưu manh rồi đẩy nhau đi làm nô lệ (những đoàn đảng viên Việt cộng cũng không có ngoại lệ) cho một chủ thuyết vô luân ly là duy vật biện chứng. Nói toạc ra rằng làm nô lệ cho chủ thuyết cộng sản do HCM mang vào.
Chính cái chủ thuyết này đã khai tử giai cấp Sĩ Phu của Việt Nam để dần thay thế vào đó là một giai cấp nô lệ mới dưới sự hướng dẫn thông tin kiểu bệnh hoạn của Tố Hữu: “Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương mười” (khóc Stalin). Hoặc là, “tiếng đầu đời con gọi Stalin”. Hoặc giả, “bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giối cũng là quê hương”. Nhờ hệ thống Thông Tin mù lòa, thứ văn hóa đấu tố cha mẹ tổ tiên này được áp dụng triệt để, và đạt thành công rực rỡ mà nay, Hoàng Sa, Trương Sa, Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm, Quỷ Môn Quan... là đất người thì cũng chẳng có gì lạ! Và ở nơi đó, con người không còn bất cứ một thứ quyền nào của con người. Tất cả chỉ còn lại là sự ban phát, ra ơn từ nhà nước, mà cũng chẳng có một “trí thức” nào dám lên tiếng phản đồi, ngoại trừ một vài vị tu hành trở thành nỗi cô đơn của thế kỷ. Hay năm bảy sức trẻ, dăm ba nhà báo hăng say bị trấn áp, bị đấy vào chốn lao tù là... chấm chấm...!
Như thế, cuộc sống còn đó, nhưng là đã chết. Bởi vì với chế độ thông tin tin đồn được CS áp dụng triệt để trên đất bắc lúc trước, người dân không còn được nghe biết đến bất cứ một loại tin tức nào khác từ phía bên ngoài. Ngay những người có thân nhân vào nam, cũng phải tự nguyện cắt đứt mối giây liên lạc với người ra đi, hơn là nhận lấy thảm họa cho gia đình. Cà làng, cả tổng, cả xã, chỉ có một cái đài để phát đi những tin tức gian trá, lừa bịp của nhà nước qua hệ thống loa rỉ xét, hay những cái loa mồm không tim óc. Những người lớn tuổi, không muốn nghe thì giả điếc. Đến khi mở mắt ra lại chứng kiến nhiều cái chết tang thương. Thôi, đành ngậm miệng lại cho qua ngày. Riêng những lớp tuổi còn nhỏ, nghe từ khi lọt lòng mẹ cho đến 40-50 tuổi, bảo với họ là Hồ chí Minh có nhiều vợ. Vợ Tây, vợ Tầu, vợ ta có cả. Họ sẽ bảo bạn là thằng điên! Nếu bảo HCM là tên tội đồ buôn dân bán nước, coi chừng bạn mất mạng! Đó là kết quả vĩ đại nhất của chế độ tin đồn.
2. Chế độ tin bịt mắt.
(Còn tiếp)
Bảo Giang