Friday, September 27, 2013

Núp bóng (ma) nhau và chuyện bác Hồ

Núp bóng (ma) nhau và chuyện bác Hồ
Vũ Đông Hà (danlambao) - "Bác" hiện diện ở khắp mọi nơi và ảnh hưởng lên từng hơi thở, nhịp sống, vận mạng, tương lai của mọi người dân bởi chính sách núp của các đồng chí con cháu Bác. Bác Hồ chưa chết. Bác không được chết. 

Chính vì thế mà nhu cầu tìm hiểu, phân tích, khen ngợi hay phê phán về ông vẫn cứ tiếp diễn cho mục tiêu phê phán, phê bình, góp ý hay ngay cả với ý đồ xây dựng hệ thống chính trị đương thời. Ngày nào đảng CSVN còn núp bóng ông Hồ Chí Minh để cai trị, ngày đó người ta vẫn còn tiếp tục viết về ông Hồ Chí Minh như là một thực thể của hiện tại, một phần không thể tách rời ra khỏi thể chế và bộ máy cai trị ngày hôm nay...


Khởi đầu của vở tuồng Núp là... Bác. Ngày ấy, Bác núp bóng 2 ông nhà báo Trần Dân Tiên và T. Lan để vừa "đi đường vừa kể chuyện" và tự thủ thỉ về "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch". Bác... Trần Dân Tiên rất sung sướng viết: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ tịch nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: chủ tịch Hồ chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình. Ngày 2-9-45, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp Hồ chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời của Hồ chủ tịch viết như thế này...".

Điều độc đáo và cũng cực kỳ vĩ đại là Bác không cần núp bóng ai khác. Bác là chủ tịch nước, là "cha già dân tộc", Bác tự xưng Bác (phải viết hoa) với toàn dân già trẻ lớn bé.

Dưới Bác biết bao nhiêu nhà thơ, nhà văn vĩ đại với thiên tài và tấm lưng cong đánh bóng lãnh tụ - cứ chụp một câu của đồng chí thi sĩ Tố Hữu bốc đồng chí Statin tận bên Nga là thấy ngay thiên tài trước mắt: Thuở Anh chưa ra đời / Trái đất còn nức nở / Nhân loại chửa thành người  / Đêm ngàn năm man rợ... Nhưng Bác không cần đến đại văn hào, đại thi sĩ, đại nhà báo, đại bồi bút nào tất. Bác tự lôi bóng đen của Bác ra để núp, để tự gửi thư trả lời chính mình, tự viết lên những dòng chữ "chủ tịch Hồ chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình". Từ ấy... (trong tôi bừng nắng hạ) Bác cho lọt lòng 2 tác phẩm có một không hai ký tên Trần Dân Tiên và T. Lan. 

Từ cái thuở ban đầu lưu luyến núp bóng của Bác đó, các đồng chí con cháu Bác mỗi ngày một hoàn chỉnh nghệ thuật núp, cho đến ngày hôm nay đã trở nên thần kỳ. Câu chuyện núp bóng chính mình của Bác ngày xưa tưởng đã thuộc hàng cao cấp, bây giờ con cháu Bác cho lọt xuống tầm sơ đẳng. 


Trong suốt một thời gian, bắt đầu lúc đồng chí Tố Hữu chửa thành người cho đến Từ khi Anh đứng dậy, trái đất bắt đầu cười, và loài người, từ đấy, ca bài ca Tháng Mười... cả đảng ta núp bóng thế giới Vô sản Đại đồng và Chủ nghĩa Cộng sản lẫn tư tưởng Mác xít Lê nin nít. Ngày 25.12.1991 thành trì XHCN Liên Xô sụp đổ, hưởng thọ 74 tuổi, kéo theo toàn bộ các nước Đông Âu xuống hố. Đảng ta hụt hẫng không còn nơi để núp. Kết quả của công cuộc kiếm tìm bụi rậm mới đã ra đời: Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu Bác thần kỳ với anh hùng núp Trần Dân Tiên và T. Lan thì các đồng chí hậu duệ của Bác đã kỳ thần gấp bội trong việc này. Một hệ tư tưởng được sáng tác và ra đời trong khi "tác giả", từ lâu, đã là một xác ướp trong lăng. Không đồng ý với tư tưởng chỉ đạo của đảng ta đồng nghĩa với chống lại tư tưởng vĩ đại của Cha già Dân tộc, của Bác vô vàn kính yêu. Thế mới trên cả tuyệt vời. 



Chính sách Núp thứ hai được thể hiện qua chiến dịch trường kỳ gọi là Sống, chiến đấu, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại. Mọi sự tha hóa, đồi trụy, vô văn hóa được che đậy trong cái vỏ bọc đạo đức Bác Hồ này. Đạo đức của cán bộ, hay phình to hơn là phẩm chất đạo đức của toàn đảng, đã không được (và không nên) đo lường bởi hành vi của từng đảng viên nhưng thay vào đó là khẩu hiệu "sống, chiến đấu, học tập..." Những chiến dịch áo rách vì mặc quá lâu được lập đi lập lại, được hà hơi tiếp sức bởi bộ máy truyền thông và các pano tả tơi khắp phố phường. Tất cả chỉ nhằm để quẹt lên, quẹt xuống, quẹt tới, quẹt lui bởi cây cọ đỏ gần hết sơn, mong tạo nên ấn tượng về hình ảnh đạo đức của khối đảng viên đang ngày đêm phấn đấu cắm đầu lết thếch đến bở hơi theo gương đạo đức của lãnh tụ Hồ Chí Minh/ Trần Dân Tiên / T. Lan. 


Cả hai chính sách "Núp" này tạo ra một vấn nạn cho... Bác Hồ của các đồng chí CS. Chính đảng CS vì nhu cầu núp bóng Bác nên đã không để Bác chết. Cố chủ tịch Hồ Chí Minh của đảng CS vẫn đang là một phần của bộ máy cai trị hiện nay. Tất cả mọi điều, từ quan điểm chính trị cho đến hành vi cư xử đảng viên, đều nhân danh và núp bóng của Bác. Mọi nhà đều có sự hiện diện của Bác. Mọi diễn văn đều có Bác dự phần. Dân Oan biểu tình chống cường hào ác bá đảng viên CS đeo hình của Bác trước ngực. Cán bộ về hưu, lão thành cách mạng phê bình đảng cũng rủ rê Bác đi cùng để làm hộ pháp phòng thân. Bác đang yên ngũ gần đó cũng bị mang ra bờ Hồ - ảnh Hồ Chí Minh được giương cao để đả đảo Hồ Cầm Đào. Bác Hồ không ở nằm yên giấc nghìn thu trong lăng. Bác hiện diện ở khắp mọi nơi và ảnh hưởng lên từng hơi thở, nhịp sống, vận mạng, tương lai của mọi người dân bởi chính sách núp của các đồng chí con cháu Bác. Bác Hồ chưa chết. Bác không được chết. 

Chính vì thế mà nhu cầu tìm hiểu, phân tích, khen ngợi hay phê phán về Hồ Chí Minh vẫn cứ tiếp diễn cho mục tiêu phê phán, phê bình, góp ý hay ngay cả xây dựng hệ thống chính trị đương thời. Ngày nào đảng CSVN còn núp bóng Bác Hồ để cai trị, ngày đó người ta vẫn còn tiếp tục viết về Hồ Chí Minh như là một thực thể của hiện tại, một phần không thể tách rời ra khỏi thể chế và bộ máy cai trị ngày hôm nay. Mọi nhân vật của quá khứ đóng vai trò quan trọng đối với đất nước đều được lịch sử phán xét. Theo dòng thời gian dân tộc sẽ tiến gần đến những kết luận khách quan và trung thực về ông. Tuy nhiên, đảng CSVN đã không cho phép ông Hồ trở thành một nhân vật lịch sử quá khứ. Ông phải tiếp tục "sống" và buộc phải đóng vai một tấm bình phong cho đảng núp. 

*

Chính sách núp bóng khác, vĩ đại không kém còn có một tên gọi là Ăn mày dĩ vãng. Đảng cộng sản ngày hôm nay đã biện minh cho vai trò độc quyền lãnh đạo của họ bằng những thành quả của quá khứ. Những người lãnh đạo ngày hôm nay không phải là những anh hùng Điện Biên ngày xưa trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ chỉ là một cán bộ cấp thấp, một bộ đội cấp trung trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, một y tá quèn, một công an chuyên trị dọn bãi vượt biên thâu vàng đổi xác chết cho cá mập ngoài biển đông... Bỏ qua việc tranh cãi về công lao giải phóng đất nước thật sự thuộc về ai, đảng CSVN ngày hôm nay không phải là đảng CSVN ngày xưa. 


Ngược dòng lịch sử, không ai có thể chấp nhận vai trò chính thống của Việt gian Lê Chiêu Thống chỉ vì ông ta là hậu duệ của đức Lê Thái Tổ - người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh dành lại độc lập cho dân tộc. Ngay trong thời đại phong kiến, cha truyền con nối nhưng Lê Chiêu Thống đã không thể ăn bám hào quang quá khứ dòng họ nhà Lê và không thoát khỏi nhãn hiệu lịch sử gán cho là "cõng rắn cắn gà nhà". Hào quang và công lao của vua ông Thái Tổ không bảo chứng được cho tư thế cầm quyền của đứa cháu bán nước đời sau. Những Lê Chiêu Thống ngày hôm nay cũng không khác. Tất cả mọi nỗ lực tuyên truyền về đảng lãnh đạo quang vinh, cách mạng thần thánh đều chẳng khác gì Lê Chiêu Thống đi ăn mày quá khứ Lam Sơn oanh liệt của tổ tiên. 

Tương tự như việc núp bóng vào ông Hồ Chí Minh, hành động núp bóng và ăn mày dĩ vãng của đảng CS đã biến quá khứ thành một phần không thể tách rời với guồng máy cai trị hiện tại. Do đó không thể tránh được nhu cầu tiếp tục tìm hiểu sự thật của giai đoạn quá khứ ấy. Bởi vì không có gì đảm bảo rằng cái quá khứ khởi đi từ 1945 với nhiều bi hận, oan khiên của Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm và... Trần Dân Tiên sẽ mang nét hào hùng của thời đại người anh hùng áo vải đất Lam Sơn. 


Những chính sách Núp này đã hình thành văn hóa Núp, truyền thống Núp, hành xử Núp. Núp từ cơ cấu tổ chức đến thái độ cầm quyền đến hành vi trong cư xử. Đảng núp bóng của "tư tưởng", "đạo đức" Bác Hồ lẫn hào quang quá khứ để dựng nên vai trò chính thống. Đảng tạo ra bóng ma nhân dân để đem cơ cấu cai trị vào mà núp: Quốc Hội, Nhà Nước, Mặt Trận Tổ Quốc, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Tòa Án Nhân Dân. Đảng cưởi đầu, cưởi cổ Nhân dân, vừa núp bóng Nhân dân trong mọi ngôn từ, văn kiện (trừ Ngân Hàng) để thu tóm quyền lực, cai trị gần 90 triệu người như bạo chúa, phá hoại tài nguyên môi trường quốc gia, dâng đất dâng biển, tham nhũng, tham ô, hủ hóa, tiêu diệt dân phong dân khí và coi mạng sống, tự do của con người như cỏ rác... 

Núp bóng (ma) nhau là chính sách xuyên suốt thế kỷ của đảng. 


Sunday, September 8, 2013

Luật Hiến pháp và Chính trị học (10)

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (10)

Tháng 9 7, 2013
CHƯƠNG III: THAM GIA VÀ BẤT THAM GIA
Mục I: THÁI ĐỘ PHI CHÍNH TRỊ
Trong cuộc sinh hoạt chính trị hiện nay, người ta nhận thấy có hai trào lưu tư tưởng, hai khuynh hướng, tuy khác biệt nhau, nhưng chung quy chỉ là hai hình thức của thái độ phi chính trị. Khuynh hướng thứ nhất đưa đến việc phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động của mình. Khuynh hướng thứ hai nhằm đề cao thái độ thụ động của công dân trước thời cuộc.
Chúng ta lần lượt phân tích và phê bình hai khuynh hướng quan trọng này.
Đoạn 1: PHỦ NHẬN TÍNH CÁCH CHÍNH TRỊ CỦA HOẠT ĐỘNG
Như chúng ta đã biết, công dân không tham gia thật sự vào cuộc sinh hoạt chính trị, phần đông vì chán ghét chính trị, vì thiếu thì giờ hoặc vì cho rằng chính trị là một địa hạt không liên quan đến họ, là địa hạt của những nhà chuyên môn chính trị. Loại công dân này thường có một thái độ thụ động.
Trái lại, một số người có những hành vi, những hoạt động liên hệ với cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đối với những người này, những hành vi đó không có tính cách chính trị. Họ phủ nhận rằng hành động của họ, lập trường của họ có tính cách chính trị. Thái độ phi chính trị này, vì tầm quan trọng của nó, vì tính cách phổ thông của nó, cần được phân tích rõ rệt vì thái độ này là một khía cạnh quan trọng của sự tham gia chính trị. Chúng ta có thể nói một cách tổng quát rằng có 3 trạng thái khác nhau về thái độ phi chính trị: hoặc đó chỉ là một ảo tưởng, chỉ là một chiến thuật, chỉ là một nhiệm vụ.
A. Một ảo tưởng
Thái độ phi chính trị, một ảo tưởng, là lập trường của tất cả những người tham gia và cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đồng thời lại phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động ấy. Và họ phủ nhận một cách cương quyết, thành thật. Tại sao? Sở dĩ như thế là vì những người này có một quan niệm quá hẹp hòi; quá khắt khe về chính trị, và đôi khi lại chống chính trị.
* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến chính đảng, đến bè phái. Vì thế khi mà hoạt động của họ trên đảng phái hay ngoài đảng phái, khi mà hoạt động của họ không có tính cách chia rẽ, phân li thì họ quan niệm rằng đó không phải là chính trị, đó là những hành vi không có tính cách chính trị.
* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến ý thức hệ, đến sự đấu tranh về ý thức hệ. Vì thế mà khi hoạt động của họ bề ngoài, có tính cách kĩ thuật, dựa trên kinh nghiệm thực hành, thì không bao giờ nhận rằng hành vi ấy là hành vi chính trị.
Đó là một quan niệm quá chật hẹp về chính trị. Họ không chấp nhận được rằng chính trị chi phối những địa hạt quan trọng và rộng rãi của mối tương quan của con người, chứ không phải chỉ vỏn vẹn nằm trong lĩnh vực định chế và chính quyền. Họ từ khước việc xem xét, việc cân nhắc những hậu quả chính trị của hành vi mà họ cho rằng chỉ có tính cách riêng tư.
Tâm trạng này là tâm trạng của rất nhiều người. Ví dụ:
* Trường hợp của những đạo sĩ, những vị tu hành. Những vị này, trong những ngày cách mạng, giữa lúc chính biến, có những hành vi như: góp tiền để giúp tù nhân chính trị, cho ở trong nhà mình, giấu trong nhà mình những kẻ đối lập chính trị. Đó là những hành vi hoàn toàn và không thể chối cãi có tính cách chính trị. Nhưng vì lòng từ thiện của họ, vì họ cho rằng làm như thế ngoài mục đích chính trị, mà trái lại vì đó là bổn phận, vì đó là để tránh cho con người những đau khổ. Họ thành thật cho rằng không vì lí do chính trị, nhưng họ quên rằng những hành vi ấy có hậu quả chính trị.
* Trường hợp của những người cầm bút, của văn sĩ: nghề nghiệp của họ đưa đến một lập trường chính trị, hoặc một hậu quả chính trị mà họ không ý thức. Những người cầm bút, trong những bộ tiểu thuyết hay những quyển tùy bút, tiểu luận v.v… Khi họ tố cáo những tệ đoan trong xã hội, khi họ miêu tả chính giới với những đặc điểm như loạn luân lãng mạng, những con buôn chính trị, khi họ tố cáo những thối nát của chính quyền, thì dù muốn dù không, dù cho họ có phủ nhận rằng họ không bao giờ có ý định phán đoán giá trị xã hội mà họ phác họa hay phân tích, dù muốn dù không, hành vi của họ có tính cách chính trị, có hậu quả chính trị và đôi khi, nhận định của họ có ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sinh hoạt chính trị.
* Trường hợp của những nhà bác học: khi họ tố cáo thảm họa của thí nghiệm nguyên tử hay chiến tranh nguyên tử, lời tuyên bố hay hành vi của họ hoàn toàn có tính cách khách quan, trên cả ý thức hệ và đảng phái chính trị. Vẫn biết rằng hành vi ấy chỉ nhằm mục tiêu cao cả, nhân đạo và sự tồn vong của nhân loại, nhưng họ không thể ngăn cản được sự kiện là lời tuyên bố của họ sẽ được khai thác trên phương diện chính trị, lời tuyên bố của họ không thể không có ảnh hưởng chính trị và là một yếu tố quan trọng trong lãnh vực bang giao quốc tế.
Đấy là một vài ví dụ tâm trạng, thường thường của nhiều người tưởng mình đứng ngoài chính trị. Lập trường phi chính trị này dựa trên những hành vi mà người ta cho rằng tự nó không có tính chất chính trị, nhưng đó chỉ là ảo tưởng vì, dù tự nó không có tính chất chính trị đó là hành vi có hậu quả chính trị. Mà tất cả những hành vi có hậu quả chính trị là những hành vi chính trị.
Thái độ phi chính trị này, chúng ta lại tìm thấy được đề cao bởi những tổ chức, nhưng đây không phải vì một ảo tưởng: nó trở thành một chiến thuật.
B. Một chiến thuật
Thái độ phi chính trị, một chiến thuật, là thái độ của những ai, và nhất là của những tổ chức, chối cãi rằng mình tham gia chính trị, mà kỳ thật thì trong thâm tâm lại nghĩ khác.
Vì chính trị có tiếng không tốt, như chúng ta đã biết, cho nên các nhà lãnh đạo các nghiệp đoàn, hiệp hội ngại rằng có một thái độ rõ rệt hay là dùng những danh từ hơi chính trị một chút có thể sẽ làm sứt mẻ tình đoàn kết của nhân viên, và làm cho họ hoảng sợ. Bởi thế các nhà lãnh đạo khôn khéo luôn luôn quả quyết rằng lập trường của mình hay là quyết định của mình chỉ nhằm việc bảo vệ quyền lợi của đoàn thể, đứng ngoài mọi tranh chấp chính trị. Họ cố tránh danh từ chính trị và chỉ dùng nào là quyền lợi nghiệp đoàn, quyền lợi công dân, quyền lợi quốc gia v.v…
Mặc dù họ can thiệp vào chính quyền, và sự can thiệp có tính cách chính trị không thể chối cãi, họ vẫn tuyên bố nhân danh quyền lợi của đoàn thể và đứng ngoài đảng phái. “Chúng tôi bảo vệ quyền lợi của chúng tôi chứ chúng tôi không có làm chính trị.”
Đó chỉ là thái độ phi chính trị bề ngoài và ai cũng thừa hiểu rằng những tổ chức không mục tiêu chính trị có những hành vi chính trị và không có thời nào mà người ta không nghe thỉnh thoảng dư luận tố cáo sự can thiệp của giới thương mại, của bức tường tiền bạc vào nội bộ chính trị.
Sở dĩ những nhà lãnh đạo phải bao trùm trên những hành vi chính trị một bức màn có vẻ khách quan, trung lập, đó chỉ là một chiến thuật nhằm đạt kết quả mong muốn mà thôi.
C. Một nhiệm vụ
Đây là khía cạnh thứ ba của lập trường phi chính trị. Ở đây người ta nhằm mong mỏi hoặc đòi hỏi nhân viên chính quyền nên đứng ngoài cuộc sinh hoạt chính trị. Đây là một vấn đề liên hệ đến tình trạng của công chức nói chung.
Trong một chính thể dân chủ, chính thể mà mọi chính kiến đều phải được tự do phát biểu và bảo đảm, mối tương quan giữa nhân viên chính quyền và công dân đặt nhiều vấn đề tế nhị. Để tránh mọi thiên vị và bảo vệ tính cách vô tư của người công chức, Nhà nước bắt buộc công chức phải có một thái độ khách quan khi thừa hành chức vụ. Nghĩa là, trên mọi phương diện nghề nghiệp, họ phải có một thái độ thận trọng đối với tất cả lực lượng chính trị và phải luôn luôn đặt quyền lợi của công vụ trên hết. Và bổn phận của công chức là tuân mệnh lệnh của Chính phủ, bất cứ là Chính phủ nào.
Đây là tình trạng thông thường của công chức trong chính thể dân chủ. Và trước một tình trạng như thế, người ta gán danh từ phi chính trị.
Thật ra khi chúng ta nói đến công chức không làm chính trị, đứng ngoài chính trị, chúng ta chỉ nêu lên một khía cạnh công chức không nên vì cảm tình đảng phái mà quyền công vụ, mà có những hoạt động hoặc quyết định thiên vị. Thái độ phi chính trị nhằm mục tiêu đó, và chỉ có thế thôi.
Nhưng yếu tố bè phái chỉ là một yếu tố trong những yếu tố khác của các quyết định hành chính hay chính trị quan trọng. Công chức, nhất là công chức cao cấp, tham gia trực tiếp vào việc soạn thảo các quyết định chính trị; công chức không thể không xem vào chính trị.
Đoạn 2: ĐỀ CAO THÁI ĐỘ THỤ ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN ĐỐI VỚI THỜI CUỘC
Đây là một khuynh hướng chính trị được thể hiện trong rất nhiều nước, nhất là sau một khủng hoảng chính trị.
Người ta tố cáo chính trị, cho rằng vì chính trị nhiều quá mà hỏng việc tất cả.
A. Và đây là lí luận của những người chủ trương thái độ thụ động của công dân:
“Con người – vấn đề chính của họ là sống, sống đời sống hằng ngày của họ; những lo âu cá nhân hay của gia đình họ chiếm hết thì giờ. Số công dân theo dõi các vấn đề quốc gia với ý muốn tham gia rất hiếm có. Và như thế là tốt lắm! Xứ nào, nước nào mà trong ấy công dân tham gia, thảo luận quá nhiều về chính trị, xứ ấy, nước ấy gần đến ngày tàn.”
Theo khuynh hướng này, thì chính trị là cái gì cao siêu khó khăn và chỉ có một nhóm người am hiểu và đủ thẩm quyền đề cập đến. Những người này chấp nhận nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc bầu cử, nhưng giữa hai cuộc bầu cử, công dân nên trở về công việc hàng ngày riêng tư. Sự tham gia của công dân có tính cách bất thường và khi nào cần đến.
Tóm lại, những người chỉ trích sự tham gia chính trị của công dân và đề cao thái độ thụ động của công dân, cho đó là triệu chứng tốt đẹp của cuộc sinh hoạt chính trị. Thái độ này dựa trên hai ý tưởng chính:
* Quần chúng vô thẩm quyền, để định đoạt những vấn đề ấy, và trong trường hợp quần chúng có am hiểu đi nữa, nếu họ phải quyết định chắc chắn là họ quyết định theo quyền lợi riêng tư của họ.
* Quyền lực vô chính trị, trên chính trị rất cần thiết để giải quyết những vấn đề trọng đại; nói một cách khác chính trị đóng vai trò của nó nơi mà có sự tranh chấp về quyền lợi nho nhỏ; khi có việc đại sự cần có một quyền lực trên tất cả chính trị
B. Chúng ta nghĩ sao về khuynh hướng và lí luận này?
Cần phải nói ngay rằng là một lập luận không đứng vững.
* Quần chúng không thẩm quyền? Đó là một luận cứ không đứng vững nếu chúng ta nhận thức rằng chính quyền thường thường bao trùm màn bí mật trên các vấn đề quốc gia đại sự. Rồi những kẻ có quyền lực, núp sau bức màn này để tha hồ định đoạt. Họ tuyên bố rầm rĩ lên là khó, họ cố tình làm rối beng công việc nào là hồ sơ chồng chất lên cao, nào là tính cách kĩ thuật của vấn đề, để làm công dân chán ngán. Sau đó, kết luận rằng công dân vô thẩm quyền.
Sự thật ra, không có một vấn đề chính trị nào mà không thể giải nghĩa rõ ràng, và vấn đề quần chúng vô thẩm quyền chỉ là bịa đặt và lí do để gạt sự tham gia của công dân ra ngoài.
* Một quyền lực vô chính trị để giải quyết những vấn đề trọng đại? Luận cứ này chỉ là phản ảnh của một ảo tưởng. Cho rằng có thể lấy một quyết định chính trị và chỉ dựa trên một tiêu chuẩn, hay một quan điểm không chính trị, là một ảo tưởng. Bất cứ một người nào, một nhân vật nào, dù là ngự trị ở tận mây xanh đi nữa, khi mà họ quyết định về phương diện chính trị, là đương nhiên họ lấy một quyết định chính trị và họ trở thành một nhân vật chính trị.
Đấy, những luận cứ của những ai chỉ trích sự tham gia không thể đứng vững.
Vẫn biết rằng khi mà công dân có một thái độ hơi tách rời chính trị, không chú ý nhiều đến cuộc sinh hoạt chính trị có thể đó là triệu chứng của một sinh hoạt chính trị ổn định. Thật vậy, khi mà guồng máy chính trị, hành chính của quốc gia chạy đều và trong nước thanh bình, thịnh vượng thì lẽ tất nhiên các vấn đề chính trị kém phần sôi nổi.
Vẫn biết rằng những nhà cầm quyền cần có một chút tự do, một phần tự trị nào đó đối với dư luận, đối với công dân, mới có thể thi hành nhiệm vụ một cách hữu hiệu. Chính quyền không thể làm gì được nếu dư luận cứ thọc gậy bánh xe, cứ quấy nhiễu mãi. Mới lên nắm chính quyền có vài tháng mà mỗi ngày bị gán cho danh từ con rùa thì không làm sao mà làm việc được. Chính quyền – và bất cứ một chính quyền nào cũng cần phải có thì giờ và được yên trí để thi hành nhiệm vụ. Nếu sự tham gia của công dân đưa đến hậu quả nói trên, thì sự tham gia nguy hiểm hơn sự bất tham gia.
Đấy, những chỉ trích sự tham gia chính trị là cho chúng ta phải để ý mực tự trị tương đối của chính quyền. Nhưng không vì lẽ đó mà lại đề cao thái độ thụ động của công dân.
Rất nhiều chế độ chính trị đã bị lật đổ vì đã trốn chính trị và từ khước biến đổi, làm sai lạc sự tham gia chính trị của công dân. Thay vì giữa chính quyền và nhân dân nên có một luồng điện để thông cảm và cùng giải quyết những vấn đề, người ta chỉ nhìn thấy trong những chế độ này, tinh thần vô trách nhiệm, những diễn văn rườm rà, những danh từ trống rỗng.
Chính thể dân chủ đòi hỏi một chính quyền vững mạnh và sự hữu hiệu của những phần tử tinh hoa chính trị có trách nhiệm. Nhưng để có thể lựa chọn những phần tử này một cách tự do, và nếu muốn các phần tử tinh nhuệ ấy có tinh thần trách nhiệm, cần phải có một sự kiểm soát chặt chẽ bởi một dư luận hoạt động và thông thạo. Tức là tham gia chính trị.
Mục II: LẬP TRƯỜNG MÁC-XÍT: SỰ THAM GIA TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ LÀ MỘT TRÒ BỊP BỢM
Đoạn 1: NỘI DUNG CỦA LẬP TRƯỜNG
A. Lập trường này không hẳn là của Marx, mà chính là của Lenin. Theo Lenin không thể có sự tham gia trong xã hội tư bản được. Cho đến ngày nào còn giai cấp đấu tranh, mà còn người bóc lột người, tham gia chính trị – và đồng thời danh từ dân chủ – chỉ là một trò hề.
Tại sao? Vì thượng tầng kiến tạo  – nghĩa là các định chế chính trị  – hoàn toàn bị chi phối bởi hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội. Quốc gia, Nhà nước – cái thượng tầng kiến tạo này – chỉ là bộ máy chỉ huy và đàn áp ở trong tay giai cấp thống trị. Vì thế, trong xã hội tư bản ngày nay, Quốc gia, Nhà nước là công cụ của giai cấp trung lưu. Hiểu như thế, thì tất cả những thủ tục tinh vi, cũng như hệ thống pháp lí và chính trị trong xã hội tư bản, chung quy chỉ là những trò bịp bợm hoặc những phương tiện khéo léo hầu bảo đảm sự thống trị của giai cấp nắm quyền. Trong một khung cảnh chính trị như thế, tất cả những quyền lợi, tự do mà xã hội tư bản đã nhìn nhận cho cá nhân và đoàn thể cùng những hiện tượng tham gia hoàn toàn có tính cách trừu tượng, pháp lí chứ không có một nội dung thực sự. Lenin cũng nhìn nhận rằng dân chủ kiểu Âu-Mỹ ngày nay là một bước tiến, một giai đoạn cần thiết và là một con đường ngắn nhất để tiến đến độc tài vô sản[1].
A. Thuyết Mác-xít không phủ nhận sự có thể có được của một xã hội dân chủ. Nhưng dân chủ chỉ có thể có được sau một cuộc cách mạng phá vỡ xã hội giai cấp ngày nay và thiết lập độc tài vô sản. Mà độc tài vô sản có phải dân chủ không? Lenin, trong quyển Nhà nước và Cách mạng đã cố gắng trả lời câu hỏi quan trọng này. Ông cho rằng không thể phán đoán độc tài vô sản mà không chú ý đến điều kiện sinh hoạt của xã hội trong ấy độc tài vô sản được thiết lập. Vì độc tài vô sản là một chế độ độc tài, một chế độ trong ấy vẫn còn giai cấp này đàn áp giai cấp nọ, một hệ thống cưỡng bách, thế không thể xem độc tài vô sản là một chế độ thực hiện dân chủ được. Vì chỗ nào có cưỡng bách áp bức, chỗ ấy không có dân chủ được. Tuy nhiên, đối với tình trạng trước, độc tài vô sản là một bước tiến trên đường dân chủ, vì trong xã hội tư bản ngày trước, dân chủ là một thứ dân chủ của một thiểu số thống trị đa số; trái lại, với độc tài vô sản là một thứ độc tài của đa số bị bóc lột đối với thiểu số xưa kia từng bóc lột.
Và Lenin kết luận rằng sự tiến triển của độc tài vô sản sẽ đưa đến một xã hội không giai cấp trong ấy nền dân chủ thực sự sẽ nẩy nở mau chóng.
Đoạn 2: NHẬN XÉT
Lập trường Mác-xít trên đây rất là quan trọng. Trên phương diện lí thuyết và triết học, vấn đề được đặt ra là vấn đề tự do của con người. Những người theo chủ nghĩa Mác-Lê quan niệm rằng tự do, không phải là một dữ kiện đồng thời tồn tại với con người, mà là sản phẩm của sự tiến triển của con người. Bởi thế cho nên, con người trở thành tự do, con người tự đặt điều kiện để có tự do và điều kiện ấy là cách mạng vô sản. Thuyết Mác-xít cho rằng nói đến tự do có trước hay đồng thời tồn tại với con người, trong xã hội tư bản, chỉ là ảo tưởng.
Vấn đề đặt ra là thử hỏi tự do là sản phẩm của con người hay là có tính cách siêu việt vượt hẳn mọi tiến triển của con người? Một vấn đề hoàn toàn triết lí, rất quan trọng. Cuộc tranh luận đã và đang tiếp diễn.
Trên phương diện thực thể, cần phải nhận định rằng chủ nghĩa Mác-Lê phủ nhận sự có thể có một thay đổi toàn diện trong xã hội bởi những phương thức bất bạo động. Vì con người chỉ có thể có tự do sau một cuộc cách mạng vô sản và với sự độc tài vô sản.
Tuy nhiên, lịch sử chính trị cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều trường hợp phủ nhận hoàn toàn khẳng định trên của thuyết Mác-xít.
Đó là trường hợp của nhiều xã hội tân tiến ngày nay trong ấy, sự phát triển theo một chiều hướng mà cách mạng và độc tài vô sản có thể nói khó lòng có được thực hiện. Xin nhắc lại rằng theo thuyết Mác-Lê, chính những xã hội tân tiến, kĩ nghệ hóa nhiều nhất lại là những xã hội có thể đưa đến một tình trạng cách mạng bùng nổ.
Nhưng, có thể chắc chắn rằng không phải Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức Quốc, những xứ kĩ nghệ hóa nhiều nhất là những xứ mà tình trạng chính trị đem đến một sự bùng nổ cách mạng và độc tài vô sản. Đó là một sự kiện không thể chối cãi. Trái lại, chính tình trạng kém mở mang lại là tình trạng thúc đẩy cách mạng.
Hơn nữa, lịch sử đã chứng minh rằng thuyết Mác-xít đã quá tin ở sự bất hữu hiệu của thủ tục dân chủ. Vẫn biết rằng lá phiếu không thể đưa đến một thay đổi hẳn căn bản, lá phiếu không phải như thuyết Mác-xít khẳng định – là một ảo tưởng mà chính là phương tiện dân chủ có tính cách quyết định và đã đưa đến những thay đổi quan trọng mà trường hợp Anh Quốc, Pháp Quốc, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu là trường hợp điển hình.
Thật ra, vấn đề tham gia chính trị là một vấn đề quan trọng phức tạp và hiện đang thảo luận sôi nổi. Tuy nhiên cần phải xác nhận lại rằng, sự kiện đã chứng minh rằng sự tham gia ấy không phải chỉ là trò bịp bợm.
TỔNG KẾT
Qua những hình thức tham gia chính trị và sau khi phân tích những nguyên do của sự bất tham gia hay thiếu tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị, chúng ta nhìn thấy một sự kiện, đầy hậu quả cho tương lai của nền dân chủ, sự kiện ấy là thái độ thụ động của công dân trong cuộc sinh hoạt chính trị.
Và nếu chúng ta không đồng ý với những người cho rằng thái độ như thế là một triệu chúng của tình thế chính trị tốt đẹp, thì chúng ta bắt buộc phải mong mỏi một sự đảo ngược cái khuynh hướng ấy và phác họa phương tiện để đi đến kết quả. Cần phải nhấn mạnh ngay rằng đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong cuộc phục hồi danh dự tầm quan trọng của chính trị trong nhân sinh quan.
Theo chiều hướng nào? Hai điểm chính: giáo dục công dân và chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương.
1. Giáo dục công dân
Như chúng ta đã biết, chính trị có tiếng không tốt. Vì đó mà mọi vấn đề liên quan đến chính trị đều không tốt cả. Và cũng vì đó mà nhiều người thường hay phản đối rằng hành vi của mình có tính cách chính trị. Công dân khi nói đến quyền lợi chung, đến công vụ họ nghĩ ngay đến hành chính hơn là chính trị. Bởi thế, biện hộ cho chính trị, bào chữa cho chính trị là một điều hết sức cần thiết ở mọi trình độ, ở mọi địa hạt mà công dân được huấn luyện. Một vấn đề giáo dục, và vấn đề giáo dục này cần phải đặt ngay tại nhà trường. Vấn đề là khêu gợi cho học sinh ý thức được sự hiện hữu của cuộc sinh hoạt công cộng và tầm quan trọng của vai trò chính trị trong việc chuyển hướng quốc gia.
Thật ra, vấn đề này đã được giải quyết và – như các bạn đã trải qua, học sinh bắt buộc phải học cái môn mà người ta gọi là “Công dân Giáo dục”. Đó là một điều hay nhưng không đạt nhiều kết quả vì người ta làm sai lạc hướng đi của công dân giáo dục. Thật vậy, trong môn Công dân Giáo dục người ta chú trọng quá nhiều đến những giá trị tinh thần luân lí, đến bản chất chung cho tất cả công dân, đến trạng thái nhất trí của toàn dân của quốc gia, dân tộc. Quá lí tưởng! Trái lại, cuộc sinh hoạt chính trị dựa trên những bất đồng, dị biệt, dựa trên sự hòa giải giữa những điểm bất tương đồng, hòa giải những mâu thuẫn. Chính trị dựa trên một sự lựa chọn có thể chấp nhận được cho một số đông người giữa những giải pháp có thể được.
Chính cái tính cách đa nguyên ấy và tính cách tương đối của nhận thức chính trị cần phải được nhấn mạnh.
Hơn nữa, khi nói đến công dân, nghĩa vụ hay quyền lợi công dân, cần phải đặt ngay câu hỏi: khi đề cập đến vấn đề công dân, người ta quan niệm như thế nào? Sở dĩ cần phải đặt câu hỏi như thế là vì, trong xã hội cận đại, khi nói vấn đề công dân, người ta chỉ nghĩ đến – và người ta ở đây thường thường là những người cầm quyền – người ta chỉ nghĩ đến nghĩa vụ, nào có bổn phận tuân hành luật lệ, nào là hi sinh cho Tổ-quốc, cho tương lai dân tộc. Và kinh nghiệm cho biết rằng trong những giờ phút nguy biến, khi chính thể dân chủ trải qua những cuộc khủng hoảng, chính quyền hay dùng tới danh từ công dân với khía cạnh nghĩa vụ mà thôi.
Chúng ta không thể chối cãi rằng nghĩa vụ là đức tính quan trọng của công dân trong chính thể dân chủ, nhưng khi đề cập đến công dân chúng ta không nên quên khía cạnh tham gia. Hô hào, kêu gọi lòng ái quốc, đến công dân, không nhằm nghĩa vụ mà đồng thời phải chú trọng đến công việc đem lại cho công dân một niềm tin, một ý nghĩa và tinh thần trách nhiệm của họ.
Hô hào, kêu gọi đến sự tham gia của công dân mà không gợi cho họ một giá trị nào, giá trị chính trị, không gợi cho họ một công cuộc thực hiện một mục tiêu nhất định, mà trái lại chỉ nhấn mạnh những nguyên tắc tinh thần luân lí, nhấn mạnh khía cạnh bổn phận, làm như thế là một khuyết điểm. Có thể sự tham gia của công dân được tăng cường nhưng sự tăng cường đó chỉ có tính cách bề ngoài. Công dân không ý thức tầm quan trọng của chính trị. Công dân có thể làm tròn nghĩa vụ của mình, có thể thực hiện một vài hành động chính trị, nhưng không nắm vững ý nghĩa thực sự. Mà, hành động không đủ, ý chí tham gia mới là cần thiết, và ý chí tham gia này do nơi sự chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị.
Nếu không ham muốn tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, nếu không ý thức rằng mình tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, thì công dân không dự vào việc quyết định số mệnh quốc gia và họ chỉ còn là một yếu tố, một đơn vị, ít nhiều thụ động, của một guồng máy độc đoán dùng họ mà thôi.
Giáo dục công dân không những ở nhà trường và nhấn mạnh đến khía cạnh tham gia, mà còn là một vấn đề quan trọng của chính đảng. Nói đến vấn đề giáo dục công dân và chính đảng là phải nghĩ ngay đến công việc cải tổ và đem lại nguồn sinh lực cho hệ thống chính đảng và phong trào chính trị.
Như chúng ta đã biết những tổ chức này rất có nhiều tiếng tăm, nhất là ở Việt Nam, nhưng toàn là tiếng tăm bất hảo. Vì chính đảng thường thường là một nhóm người họp nhau để có một lực lượng, rồi dùng lực lượng này với tính cách lực lượng áp lực nhằm mục đích chiếm ngôi thứ.
Công cuộc cải tổ những chính đảng và phong trào chính trị nhằm đem lại một quan niệm mới và thiết thực về vai trò của chính đảng trong cuộc sinh hoạt chính trị là một vấn đề cấp bách.
Chính đảng không phải chỉ là một dụng cụ, để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người hay một thành phần xã hội; chính đảng còn phải là một phương tiện để đề cao một chủ nghĩa và thực hiện một chương trình. Quan niệm như thế thì vai trò chính yếu của chính đảng là vai trò trung gian. Một mặt chính đảng đặt vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân; mặt khác chính đảng giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân vào chính quyền.
Đặt các vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân là như thế này: công dân, đa số, không thể nào thấu hiểu những vấn đề Chính phủ, những vấn đề càng ngày càng phức tạp và có tính cách chuyên môn, vì thế mà đã có khuynh hướng giao cho các nhà chuyên môn giải quyết các vấn đề này. Vì công dân không hiểu mà chính đảng phải thông tin và có thể thông tin. Chính đảng là một nhà trường tự do, cần thiết cho việc điều hành nền dân chủ. Công tác của Chính phủ càng phức tạp, khó khăn chừng nào, thì công việc thông tin, giải thích càng sâu xa và đầy đủ chừng ấy. Công dân chỉ thích, chỉ chú ý những gì mà họ biết và chỉ kiểm soát những gì mà họ hiểu.
Công dân có thể không nắm vững được tất cả các quyết định chính trị trong chi tiết. Nhưng họ có thể thấu hiểu đâu là nguyên nhân, đâu là tinh thần và họ phải có thể xét đoán được những giải pháp mà Chính phủ đưa ra. Đấy chính đảng và phong trào chính trị đóng vai trò quan trọng là giáo dục chính trị công dân.
Không những chính đảng đặt vấn đề chính trị đúng tầm hiểu biết của công dân, các tổ chức này còn giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân đối với chính quyền. Tại sao chính đảng giúp vào việc thể hiện sự tín nhiệm?
Chính thể dân chủ dựa trên một phương thức tổ chức, trên một hình thức cấu tạo về phương diện tín nhiệm cũng như về phương diện kiểm soát. Nói rằng công dân tín nhiệm chính quyền chỉ có nghĩa là công dân tín nhiệm chính quyền qua sự trung gian của đại diện. Danh từ đại diện ở đây bao gồm không những đại diện chính thức – các vị dân biểu Quốc hội mà luôn cả cán bộ của chính đảng. Vì những cán bộ của chính đảng, những phần tử ưu tú của chính đảng là thành phần của đoàn thể nắm chính quyền.
Tóm lại, không thể có một nền dân chủ linh động nếu không có một sự tín nhiệm của công dân đối với các phần tử ưu tú của chính đảng và những phong trào chính trị. Nhưng cần phải nhấn mạnh ngay rằng sự tín nhiệm này, cái cảm tính này không có nghĩa là thoái vị. Tín nhiệm nhưng đồng thời được giáo dục, huấn luyện người dân thấu hiểu các vấn đề và tham gia thường xuyên vào việc định hướng cho tương lai. Và chúng ta có thể kết luận rằng không có nhà trường nào quý giá hơn nhà trường chính đảng và không có chỗ nào công dân tích cực tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị bằng chính đảng.
Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đặt tất cả hi vọng vào chính đảng. Có lẽ cũng cần thêm rằng, chúng ta không có một mảy may hi vọng vào khả năng của chính đảng hiện nay để đảm đương vai trò ấy, vai trò giáo dục và trung gian giữa chính quyền và công dân. Những trò gian lận, bịp bợm của họ, những sự dối trá, những chương trình, hành động mị dân của họ là những yếu tố đưa đến sự mất uy tín của chính đảng hiện nay.
Vậy nhu cầu hiện tại  – để tăng cường sự tham gia chính trị của công dân – là gầy dựng lại những tổ chức chính trị có trách nhiệm. Cần phải thành thật mà nhận rằng công cuộc xây dựng này đòi hỏi một công trình nặng nề và không bao giờ hoàn hảo. Soạn thảo một bản Hiến pháp dễ gấp trăm lần việc thiết lập và khích động một hệ thống chính đảng đáp ứng với nhu cầu của một xã hội tân tiến.
Nhưng dù sao, công tác chính trị là công tác trường kỳ và cố gắng hàng ngày. Giữa một trạng thái nô lệ, lỗi thời và một tình trạng dân chủ bề ngoài, không có lối thoát nào khác.
2. Chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương
Giáo dục công dân đem lại cho họ một niềm tin và khích lệ họ chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị chưa hẳn là đủ. Còn cần phải duy trì phong trào này. Cuộc sinh hoạt chính trị địa phương là dịp để công dân tham gia vào chính trị.
Các chính trị gia đều đồng ý rằng cái mà người ta gọi là “chính phủ địa phương” là nền tảng của chính thể dân chủ và sự tham gia của công dân vào đời sống chính trị xã thôn là trường học quý giá trong việc giáo dục công dân. Chính ngay trong thôn xã là nơi tập trung sức mạnh của những dân tộc tự do. Những định chế xã thôn đối với tự do, dân chủ có thể ví như những trường tiểu học đối với khoa học. Chính ngay ở trường tiểu học mà con em tìm thấy những bước đầu tiên của kiến thức. Chính ngay ở cuộc sống xã thôn mà công dân thưởng thức tự do, dân chủ. Cuộc sinh hoạt địa phương đem lại và duy trì tinh thần công cộng, một quan niệm của sự ích lợi của làng của nước. Cuộc sinh hoạt địa phương đặt những vấn đề đúng tầm hiểu biết của họ, là dịp họ luyện tập tham gia. Những định chế gần họ, chính quyền kề bên họ, và họ thấy ngay đâu là quyền lợi chung và tinh thần trách nhiệm.
Đem lại một luồng sinh lực mới cho cuộc sinh hoạt địa phương là một công tác tối cần. Vì ở địa phương, công dân ý thức tinh thần tự do, ý thức trạng thái một công dân chứ không phải con người nô lệ.
Ý tưởng tham gia – và cuộc sinh hoạt dân chủ – có nghĩa một sự tán đồng của mỗi người và của mọi người, tán đồng một công trình cùng nhau trù liệu, một công trình có tính cách siêu việt đầy hứa hẹn.
Sự tán đồng này dĩ nhiên đòi hỏi mỗi người một sự gia nhập hoàn toàn, sức can đảm để khắc phục khó khăn có thể xẩy đến và, đôi khi, nhiều hi sinh đau đớn. Vì không có một công trình vĩ đại nào mà không có sự hi sinh về con người cũng như về khát vọng ích kỉ.
Hi sinh, làm sao có được nếu không có một động lực gây một mối cảm tình sâu rộng và một bầu không khí nồng nhiệt tập đoàn?
Nghĩ cho cùng, ý tưởng tham gia nhấn mạnh một sự phủ nhận cá nhân và đồng thời đề cao sự thực hiện giá trị bản thân trong công trình xây dựng chung.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

[1] Tức “độc tài của giai cấp vô sản” (dictature du prolétariat), tác giả dịch đúng nghĩa, khác với cách dịch của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyên chính vô sản. (p&r).

Luật Hiến pháp và Chính trị học (9)

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (9)

Tháng 9 4, 2013
CHƯƠNG II: NHỮNG HÌNH THỨC THAM GIA CHÍNH TRỊ
Mục I: CÔNG DÂN CHÚ TRỌNG ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ
Một trong những hình thức tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị là chú trọng đến các vấn đề chính trị. Vì có chú trọng mới am hiểu sự phức tạp của các vấn đề, mới phán đoán một cách chính xác nhà cầm quyền và khi bầu cử mới sử dụng lá phiếu một cách đứng đắn. Cần phải thành thật mà nhận định rằng tỉ số công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị rất kém. Thật vậy, qua những cuộc tìm hiểu dư luận, những cuộc điều tra dân ý, người ta đã có những kết quả như sau:
  • 20% chú ý thật đến chính trị.
  • 40% chỉ biết sơ sài về chính trị.
  • 40% không biết gì về chính trị.
Và kết quả này là kết quả chung của rất nhiều nước hiện nay trên thế giới. Tỉ số quá kém này còn thấp hơn nữa trong những nước vừa thâu hồi nền độc lập trong ấy mức sống còn kém và trình độ hiểu biết chưa được phổ thông nhiều.
Khi nói đến công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị, chúng ta cần phải nhấn mạnh hai khía cạnh quan trọng là tìm hiểu chính trị và có lập trường chính trị: công dân ít tìm hiểu chính trị và cũng ít có lập trường chính trị.
Đoạn 1: TÌM HIỂU CHÍNH TRỊ
Tìm hiểu chính trị, tức là sự dò thăm, săn tin tức, theo dõi các vấn đề chính trị. Làm thế nào để theo dõi chính trị? Không có phương tiện nào hơn là báo chí. Và ở đây chúng ta đứng trước một vấn đề cực kỳ quan trọng vấn đề mối tương quan giữa chính trị và báo chí. Thật vậy, công dân chỉ bàn cãi chính trị, chú ý đến cuộc sinh hoạt xuyên qua báo chí. Thế mà báo chí ngày nay lại ít nói đến chính trị. Có một hiện tượng tổng quát chung cho các nước trên thế giới – trừ một vài biệt lệ, một hiện tượng đầy ý nghĩa là càng ngày càng khó mà cho xuất bản một tờ báo hoàn toàn chính trị. Và kinh nghiệm cũng cho biết rằng những tờ báo có một mầu sắc chính trị, có một lập trường chính trị rõ rệt lại thấy độc giả của mình ngày càng kém đi.
Vẫn biết rằng làm báo là làm tròn sứ mạng thông tin, đôi khi để thể hiện xu hướng chính trị của mình, nhưng đó là lí tưởng tốt đẹp. Và lí tưởng tốt đẹp ấy không cho phép các chủ nhiệm xao lãng các con số quan trọng liên hệ đến xí nghiệp của ông: con số in, con số độc giả. Và để ý đến những con số ấy, nhất là sở thích của độc giả – nhất định là đưa đến hậu quả này: tránh những tin tức chính trị và tăng những tin “sốt dẻo”.
Vì báo bán chạy nhất là những tờ báo có đăng ở trang nhất những câu chuyện tâm tình cùng những bức ảnh đầy tưởng tượng của một nữ danh ca hay một ngôi sao màn ảnh, những đám cưới linh đình của con nhà vua, chúa. Và những chuyện chó cắn, đụng xe, những vụ tạt át-xít, những mẩu chuyện bằng hình, những bộ tiểu thuyết tình cảm xã hội likỳ cùng những bộ “lục mạnh thần kiếm” hay là “cô gái đồ long” tất cả những tin tức ấy chiếm hết cả trang giấy của tờ báo.
Chính trị vỏn vẹn còn lại một vài cột và liên quan đến nhân vật nhiều hơn là vấn đề với những lời bình phẩm bên lề chính trị.
Đó là tình trạng bi đát của báo chí ngày nay. Và chính tình trạng bi đát này giải thích một phần nào sự thiếu thông tin của công dân. Và đó là nguyên nhân và đồng thời là hậu quả của một hiện tượng: công dân không chú ý đến các vấn đề chính trị.
Nếu báo chí không thông tin xác thực và bàn luận thì làm sao công dân hiểu biết để tham gia chính trị. Trái lại, nếu công dân không chú ý đến phần tin tức chính trị, làm sao báo chí có can đảm cho in nhiều về chính trị. Và cái vòng lẩn quẩn này đưa đến một hậu quả chính trị không đẹp là công dân không tham gia tích cực vào cuộc sinh hoạt chính trị. Vì làm sao tham gia nếu không tìm hiểu chính trị?
Đoạn 2: LẬP TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
Có những tin tức chính trị, có tìm hiểu chính trị, công dân mới có thể có một lập trường chính trị. Công dân tham gia chính trị khi nào họ công khai có ý kiến, thảo luận về chính trị, cố gắng để thuyết phục người khác về một đường lối chính trị, tham gia một cuộc biểu tình, kí tên dưới một văn kiện có tính cách chính trị. Có những hoạt động này là có một lập trường chính trị.
Cần phải nói ngay rằng tỉ số công dân có một lập trường chính trị lại còn kém nhiều nữa, và về mọi hình thức của lập trường chính trị: thảo luận chính trị, viết thơ cho báo chí hay cơ quan công quyền. Chính ngay ở Mỹ, một cuộc điều tra cho biết rằng, trả lời cho một câu hỏi: “Anh có bao giờ viết thơ cho một dân biểu Quốc hội” 80% trả lời không và 14% có. Và trong số 14% trả lời có này, gần 10% viết thơ để xin một ân huệ, bàn một vấn đề cá nhân không liên quan gì đến chính trị nước nhà.
Tóm lại, dưới khía cạnh lập trường chính trị hay tìm hiểu chính trị, thực tại cho chúng ta thấy rằng công dân ít chú trọng đến vấn đề chính trị. Đây là một nhận xét liên quan đến hình thức tổng quát nhất về tham gia chính trị.
Mục II: CÔNG DÂN CHÚ TRỌNG ĐẾN CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ
Nói đến tổ chức, chúng ta nghĩ ngay đến tổ chức chính trị và tổ chức không chính trị. Đây là những cơ cấu xã hội – mối dây liên lạc – qua đó công dân tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị.
Nói đến tổ chức chính trị, chúng ta nghĩ ngay đến chính đảng, đảng phái chính trị. Nói đến tổ chức không chính trị, chúng ta nghĩ đến những tổ chức không có mục tiêu chính trị, mà trái lại có những mục tiêu văn hóa, xã hội, nghề nghiệp v.v… Những tổ chức, những đoàn thể như Trí thức Công giáo. Thích Quảng Đức, Sinh viên Phật tử, Tổng Hội Sinh viên, tất cả các nghiệp đoàn và hiệp hội. Tất cả đều là những tổ chức không mục tiêu chính trị nhưng chắc chắn là có ảnh hưởng chính trị. Và một khuynh hướng đầy ý nghĩa của nền dân chủ cận đại, là một công dân thích có một lập trường chính trị trong những tổ chức không mục tiêu chính trị hơn là tham gia thẳng thắn vào đảng phái chính trị. Nhận xét quan trọng này chúng ta sẽ có dịp bàn đến.
Điều cần phải nhận thức ngay từ bây giờ là có những chính đảng và tổ chức không mục tiêu chính trị, hai cơ cấu xã hội trung gian của sự tham gia chính trị của công dân.
Đoạn 1: CHÍNH ĐẢNG
Chính đảng là một dụng cụ, phương tiện ưu thế của sự tham gia chính trị. Chính thể dân chủ ngày nay không thể ăn sâu vào quần chúng, không thể tồn tại nếu không có sự hiện diện của chính đảng, vì chính đảng là cơ quan vận dụng và tập trung dư luận.
Nếu không có chính đảng và nếu hệ thống chính đảng không được điều hòa một cách hữu hiệu, tương lai của nền dân chủ sẽ đen tối và cuộc sinh hoạt chính trị kém phần ổn định. Chúng ta có thể so sánh mối tương quan giữa quốc gia và chính đảng với mối tương quan giữa con người và trái tim hay bao tử. Trái tim hay bao tử của chúng ta đã nhiều lần làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng con người có thể sống không trái tim hay bao tử. Chính đảng cũng vậy. Chính đảng là một nguồn lo âu và nhiều lúc là trở lực không ít cho cuộc sinh hoạt chính trị. Nhưng không thể nào quan niệm được một nền dân chủ hữu hiệu, một khung cảnh chính trị tự do và hợp lí nếu không có chính đảng. Vì chính đảng là điều kiện tối cần của cuộc sinh hoạt chính trị.
A. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI
1. Đặc tính của chính đảng là mục tiêu của nó. Và mục tiêu của chính đảng là chiếm đoạt chính quyền và hành xử chính quyền một cách hợp pháp. Có rất nhiều đoàn thể – về phương diện tổ chức, điều hành không khác gì chính đảng. Những đoàn thể này cũng bàn về chính trị, cũng có lập trường chính trị. Nhưng mục tiêu của nó – hay nói cho đúng hơn là mục tiêu công khai – không phải là chiếm đoạt và hành xử chính quyền. Đó là điều dị biệt căn bản giữa chính đảng và những tổ chức khác. Nói rằng lập đảng phái để cứu quốc chứ không nghĩ đến nắm chính quyền là nói láo hoặc không biết gì. Chính đảng phải có mục tiêu – vì đó là lẽ dĩ nhiên – chiếm đoạt chính quyền để thực hiện chương trình và lí tưởng chính trị của đảng, lí tưởng và chương trình mà đảng cho rằng hợp với quyền lợi của quốc gia.
Và chiếm đoạt và hành xử chính quyền một cách hợp pháp. Danh từ hợp pháp có nghĩa là chính đảng hoạt động công khai để cố thâu nhận nhân viên, thuyết phục công dân theo đường lối chủ trương của mình. Và hoạt động công khai, hợp pháp, dùng những phương tiện dân chủ để chiếm đoạt chính quyền. Những tổ chức bí mật, với những mánh khóe, những phương tiện bạo động là những tổ chức phiến loạn, tổ chức ăn cướp hoặc là tổ chức gì khác chứ không phải chính đảng.
Tóm lại, “Chính đảng là một đoàn thể trong ấy, những người cùng một chủ nghĩa về chính trị, kết hợp nhau dưới một kỉ luật đã định để mưu thực hiện chính kiến chung”.
2. Phân loại
Ở đây, chúng ta đứng trên quan điểm hình thức tổ chức các chính đảng để phân loại:
a. Chính đảng cán bộ và chính đảng quần chúng
Loại thứ nhất gồm các chính đảng được gọi là “Chính đảng cán bộ”. Loại chính đảng này không nhằm thâu nhận đông đảo quần chúng mà hướng về sự thâu nạp những nhân vật có uy tín. Tổ chức nội bộ của đảng thường thường rất thô sơ với một văn phòng trung ương liên lạc, những đơn vị là những ủy ban địa phương. Giữa văn phòng trung ương và các ủy ban địa phương, cũng như giữa các ủy ban này, những mối tương quan rất là rời rạc, mỗi đơn vị giữ sự độc lập của mình. Vì thế mà chính đảng này có tính cách rất phân tán. Trọng tâm của đảng là vận động tuyển cử và hoạt động tại nghị trường. Vấn đề chủ nghĩa về lí thuyết chỉ có tầm quan trọng tương đối nào đó mà thôi. Loại đảng này thường thường là chính đảng tư sản, bảo thủ.
Loại thứ hai “Chính đảng quần chúng”. Các đảng này chú trọng đến việc thâu nạp nhiều đảng viên và không lưu tâm cho mấy đến cá nhân đảng viên. Đây là những chính đảng dựa vào đại chúng. Hệ thống tổ chức nội bộ rất chặt chẽ: việc gia nhập đảng được xác định rõ ràng với bổn phận lấy thẻ và đóng niên liễm. Các đơn vị chi bộ hoạt động tích cực để thâu nhận đảng viên và giáo dục chính trị họ. Bộ máy hành chính của đảng có một tầm quan trọng đặc biệt: đảng có một số đảng viên thường trực làm việc ăn lương của đảng với tư cách cán bộ và có uy quyền thật sự. Hoạt động của đảng không phải chỉ nhằm vận động tuyển cử mà còn chú trọng đặc biệt đến việc giáo dục chính trị, quần chúng, đến những vấn đề ngoài lĩnh vực hoàn toàn chính trị, như văn hóa, xã hội, kinh tế v.v… Vấn đề chủ nghĩa luôn luôn được đề cao trong mọi lập trường của đảng.
b. Chính đảng có tính cách dân chủ và chính đảng có tính cách độc tài
Trong chính đảng có tính cách dân chủ, lãnh tụ và nhân viên cao cấp của đảng một phần nào do chính đảng viên bầu lên. Tôn chỉ, đường lối, lập trường chính trị được thảo luận một cách công khai tại những buổi họp khoáng đại như đại hội toàn quốc mà tất cả đại diện của đảng viên có quyền tham dự. Nguyên tắc tự do phát biểu ý kiến được tôn trọng trong các đại hội, hội đồng hay ủy ban của đảng. Nguyên tắc phân quyền vẫn còn áp dụng trong việc tổ chức nội bộ và một sự bất đồng ý kiến trong chính đảng có thể được chấp nhận.
Trái lại, với các đảng có tính cách độc tài – mà điển hình là đảng cộng sản và phát-xít – nguyên tắc tổ chức là nguyên tắc tập trung tuyệt đối. Kỉ luật rất chặt chẽ: các chỉ thị từ trên đưa xuống phải được thi hành triệt để, nhân viên của đảng phải triệt để tuân lệnh của ủy ban chấp hành trung ương và nếu có lệnh, các tổng trưởng và nghị sĩ sẽ phải từ chức. Hoạt động chính của đảng không phải là vận động tuyển cử mà là tuyên truyền, sách động quần chúng bằng những phương tiện thông thường có tính cách bạo động (biểu tình, đình công, phá hoại v.v…).
B. HỆ THỐNG CHÍNH ĐẢNG
Kinh nghiệm chính trị cho chúng ta thấy rằng hệ thống chính đảng rất mật thiết ảnh hưởng đến cuộc sinh hoạt chính trị của một quốc gia. Một chính thể độc tài thường được dựa trên một chính đảng duy nhất; trái lại sự hiện hữu của nhiều chính đảng trong một quốc gia được xem là dấu hiệu của nền dân chủ. Hơn nữa chính ngay trong chính thể dân chủ, hệ thống đa đảng hay lưỡng đảng làm cho đảo lộn tất cả các nguyên tắc của luật Hiến pháp và chi phối tất cả cuộc sinh hoạt chính trị.
1. Các hệ thống chính đảng
a. Hệ thống đa đảng
Hệ thống đa đảng là hệ thống chính đảng của một quốc gia trong ấy có nhiều chính đảng hoạt động. Hiện tượng đa đảng này có nhiều nguyên nhân liên hệ đến sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân cũng như sự đối lập giữa những khuynh hướng chính trị tổng quát. Thật vậy, trong một chính đảng thường thường ít nhất cũng có hai khuynh hướng “cương” hoặc khuynh hướng “nhu” tức là nhóm quá khích, nhóm ôn hòa. Nếu sự xung đột gồm hai khuynh hướng này không có tính cách quyết liệt và trong chính đảng còn có một lãnh tụ có uy tín thì chính đảng vẫn tồn tại và giữ được sự thống nhất nội bộ. Trái lại, đến một ngày nào cuộc xung đột không thể dàn xếp được, và đi đến sự li khai chính đảng duy nhất ấy sẽ tan vỡ và một chính đảng mới sẽ xuất hiện.
Ngoài ra sự đối lập giữa các khuynh hướng tân Tây phương hay nghiêng về Khối Cộng sản, khuynh hướng bênh vực tôn giáo và khuynh hướng loại tôn giáo ra đời sống chính trị, khuynh hướng nghiêng về nền kinh tế chỉ huy hay kinh tế tự do là nguyên nhân của sự bất hòa hợp và sự xuất hiện nhiều chính đảng trên trường chính trị. Tưởng cũng nhắc thêm rằng cá tính của một dân tộc, hoàn cảnh lịch sử và thể thức đầu phiếu cũng ảnh hưởng một phần nào đến sự thành lập của đảng phái.
b. Hệ thống lưỡng đảng
Nói đến hệ thống lưỡng đảng là nghĩ ngay đến hai chính đảng hoạt động trong một quốc gia. Nhưng hệ thống lưỡng đảng không có nghĩa là chỉ có hai chính đảng hoạt động. Có thể có ba, bốn chính đảng có mặt. Nhưng tình trạng này không được coi là tình trạng đa đảng mà lại được gọi là tình trạng lưỡng đảng là vì mặc dù có nhiều đảng nhưng chỉ có hai chính đảng lớn và chỉ hai chính đảng này mới ảnh hưởng đến cuộc sinh hoạt chính trị.
Ví dụ ở Anh Quốc, ngoài hai Đảng Lao động và Bảo thủ còn có Đảng Tự do. Ở Hoa Kỳ, ngoài hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ còn các Đảng Xã hội, Tiến bộ, Lao động, v.v… Tuy nhiên, điều quan trọng trong hệ thống lưỡng đảng, là chỉ có hai đảng mới có hi vọng chiếm đa số tại Quốc hội và tham dự chính quyền.
Điều kiện then chốt của sự tồn tại của hệ thống lưỡng đảng là không có một chính đảng nào – trong hai chính đảng lớn – có tính chất độc tài. Vì nếu một trong hai đảng có tính cách độc tài – kiểu đảng cộng sản hay phát-xít – đảng này chắc chắn, khi chiếm đa số, tìm cách loại trừ thiểu số nghĩa là thủ tiêu đối lập để độc quyền lãnh đạo. Vậy hệ thống lưỡng đảng đòi hỏi một đối lập xây dựng dựa trên những nguyên tắc thiết yếu trong một khung cảnh chính trị tự do. Nếu không, hệ thống lưỡng đảng sẽ nhường bước cho hệ thống độc đảng, khi chính đảng có tính cách độc tài chiếm chính quyền.
c. Hệ thống độc đảng
Tình trạng một quốc gia trong ấy có một chính đảng duy nhất hoạt động là một hiện tượng đặc biệt của thế kỉ 20 này. Hệ thống độc đảng đã xuất hiện với chính thể cộng sản ở Nga-Sô, chính thể Quốc xã ở Đức và chính thể phát-xít ở Ý Đại Lợi. Vì thế nói đến hệ thống độc đảng, người ta liên tưởng đến một chế độ độc tài đảng trị. Hệ thống độc đảng – khác với hệ thống đa đảng hay lưỡng đảng – không phải là kết tinh của một sự thực hành chính trị, mà trái lại được ấn định bởi ý chí của những nhà cầm quyền muốn độc quyền lãnh đạo.
Những người bênh vực cho sự hiện hữu của một chính đảng duy nhất quan niệm rằng, trong xã hội cận đại, dựa trên đại chúng, chính đảng duy nhất là một định chế cần thiết cho sự tiến triển của nền dân chủ. Vì chính đảng sẽ là sợi dây liên lạc giữa chính quyền và nhân dân, đồng thời là trường học đào tạo cán bộ ưu tú cho quốc gia. Những lí do đưa ra, thoạt tiên, rất hữu lí. Nhưng thực tế cho chúng ta biết rằng chính đảng duy nhất luôn luôn đưa đến một sự độc tài, đảng trị. Những tầng lớp ưu tú mới đó chỉ là tầng lớp của những người ưu đãi, một giai cấp mới và mối dây liên lạc thường thường đưa đến một sự tôn thờ lãnh tụ và tuyên truyền nhồi sọ độc địa và khéo léo.
2. Hệ thống chính đảng và sinh hoạt chính trị
Ở đây chúng ta tìm xem ảnh hưởng của hệ thống chính đảng đối với cuộc sinh hoạt chính trị. Để có một ý niệm chính xác chúng ta sẽ lần lượt trình bày hiệu lực của ba hệ thống chính đảng đối với ba khía cạnh quan trọng: khía cạnh cơ cấu chính quyền, khía cạnh đối lập và khía cạnh cử tri.
a. Hiệu lực của hệ thống đa đảng
Hệ thống đa đảng đưa đến một tình trạng là không có một chính đảng nào chiếm đa số tại Quốc hội. Trong chính thể Nghị viện, Chính phủ sẽ là một Chính phủ liên hiệp với tất cả hậu quả tai hại là khủng hoảng chính trị và chính quyền không vững mạnh và bất liên tục. Trong chính thể Tổng thống, mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp sẽ phức tạp hơn và uy tín của Tổng thống sẽ nổi bật lên.
Đối lập sẽ là một đối lập rất tự do và rất hỗn loạn. Biên giới của nhóm đối lập với Chính phủ không rõ rệt vì thành phần của nó là rất hỗn loạn. Chúng ta có thể nói rằng – không phải một đối lập – mà nhiều nhóm đối lập tùy theo vấn đề và tùy theo thời cuộc.
Cử tri – với hệ thống đa đảng – sẽ có nhiều tự do để chọn lựa nhiều mầu sắc chính trị hợp với ý mình. Đồng thời cử tri cũng khó mà lựa chọn: giữa hai thì dễ chứ giữa nhiều thì chắc chắn phải phân vân. Hơn nữa điểm quan trọng về phía cử tri là sự chọn lựa của họ không có tính cách quyết định. Cử tri chỉ định một vị dân biểu thuộc về một chính đảng nào đó. Vị này sẽ hợp cùng các vị khác để cấu thành một đa số tùy theo thời cuộc và vấn đề.
b. Hiệu lực của hệ thống lưỡng đảng
Về phương diện cơ cấu chính quyền hệ thống lưỡng đảng đưa đến một Chính phủ của một chính đảng. Như chúng ta đã thấy – khi đề cập chế độ Nghị viện và Tổng thống – với hệ thống lưỡng đảng, mối tương quan giữa Lập pháp và Hành pháp hoàn toàn thay đổi hẳn. Với chế độ Nghị viện một chính đảng nắm đa số tại Quốc hội và lập Nội các, hoàn toàn tự do áp dụng chương trình của mình. Trong chế độ Tổng thống tùy theo hoàn cảnh – nghĩa là Tổng thống và đa số ở Quốc hội cùng một đảng hay khác đảng – nguyên tắc phân quyền sẽ không còn nữa hoặc trở nên cứng rắn hơn.
Đối lập rất rõ rệt và được định chế hóa như ở Anh Quốc. Đối lập vì có trách nhiệm – thường thường có một thái độ ôn hòa, vì sẽ có dịp áp dụng chương trình của mình và sẽ bị dân chúng phê phán.
Cử tri sẽ đứng trước một sự chọn lựa dễ dàng. Giữa trắng và đen. Lá phiếu của họ có tính cách quyết định: không những chỉ định dân biểu mà còn chỉ định Thủ tướng và tín nhiệm một chính đảng.
c. Hiệu lực của hệ thống độc đảng
Với một chính đảng duy nhất – dù trên Hiến pháp phân quyền được ấn định – nguyên tắc này chỉ là hư ảo vì Hành pháp và Lập pháp chỉ là thừa hành mệnh lệnh của trung ương đảng bộ. Chính phủ gồm toàn nhân viên cao cấp của đảng, còn Quốc hội là cán bộ của đảng chỉ biết hoan hô. Đại hội của đảng có một tầm quan trọng gấp trăm lần phiên họp của Quốc hội.
Đối lập – lẽ dĩ nhiên – không thành vấn đề. Vì chỉ có một chính đảng được phép công khai hoạt động. Không những không có chính đảng đối lập mà cũng không có đối lập trong chính đảng duy nhất ấy.
Cử tri cũng đi bầu vậy nhưng việc đi bầu không có tác dụng gì vì họ không có quyền lựa chọn. Ứng cử viên toàn là do đảng duy nhất đưa ra và phần đông là ứng cử viên duy nhất. Kết quả chắc chắn định trước. Hơn nữa việc kiểm phiếu mất hẳn tính cách trung thực.
C. VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA CHÍNH ĐẢNG
Một khi đã biểu danh từ chính đảng và nhận định tầm quan trọng của các hệ thống chính đảng, vấn đề được đặt ra là tại sao phải tham gia vào chính đảng. Công dân tham gia vào chính đảng không phải để giải trí, chơi cho vui mà để tham gia vào sinh hoạt chính trị. Qua vai trò của chính đảng mà chúng ta sẽ phân tích, chúng ta sẽ tìm thấy những hình thức mà công dân tham gia chính trị.
1. Vai trò huấn luyện công dân và những nhà lãnh đạo tương lai
Đây là vai trò hết sức quan trọng mà người ta hay quên khi bàn đến vấn đề chính đảng. Và cùng là một sứ mạng vừa cao cả vừa thực tế nhất.
Sự thật ra, trong một chính thể dân chủ, có hai khuynh hướng khác nhau về vấn đề hành xử chính quyền. Có một ý kiến cho rằng ai cũng có thể làm chính trị được và trong xứ dân chủ, bất cứ ai cũng có thể làm bất cứ cái gì. Có một ý kiến lại cho rằng chính quyền là một việc rất phức tạp, tế nhị lắm và chỉ có những người biết chuyện, quen thuộc, có học lực cao mới có thể sử dụng chính quyền được. Đó là hai ý kiến hoàn toàn quá khích, không thể chấp nhận được. Ý kiến hợp lí và thực tế là chính quyền có thể được hành xử bởi bất cứ cá nhân nào có một trình độ hiểu biết tối thiểu về các vấn đề chính trị. Trình độ hiểu biết tối thiểu ấy, chính những chính đảng là nhà trường nơi ấy công dân tìm thấy. Tại sao?
Vì một chính đảng luôn luôn có những vấn đề tổ chức, vấn đề thông tin, vấn đề giải thích, vấn đề thuyết phục, vấn đề lấy những quyết định chính trị…Tóm lại, tất cả những vấn đề tương tự như những vấn đề của một chính trị gia phải gặp và giải quyết.
Lẽ dĩ nhiên, là một đảng viên, họ có thể có những cái nhìn khác biệt, những quan niệm chính trị hay giải pháp bị lệch lạc hay quá khích. Nhưng đứng trên phương diện kiến thức, hiểu biết thì chắc chắn rằng một công dân có tham gia vào hoạt động của một chính đảng thông thạo các vấn đề chính trị hơn một công dân không phải là một đảng viên. Thật vậy, chính đảng là nơi mà các vấn đề chính quyền được đặt đúng với trình độ hiểu biết của công dân. Đa số công dân không thể nào thấu hiểu những vấn đề Chính phủ, những vấn đề càng ngày càng phức tạp và có tính cách chuyên môn. Vì công dân không hiểu mà chính đảng phải thông tin và có thể thông tin. Công tác của chính quyền càng phức tạp, khó khăn chừng nào thì công việc thông tin, giải thích phải càng sâu xa và đầy đủ chừng ấy. Công dân chỉ thích, chỉ chú ý những gì mà họ biết, và chỉ có thể thể kiểm soát những gì mà họ hiểu. Công dân có thể không nắm vững được tất cả các quyết định chính trị trong chi tiết, nhưng họ có thể thấu hiểu đâu là nguyên nhân, đâu là tinh thần của các quyết định và như thế họ có thể xét đoán những giải pháp mà Chính phủ đưa ra. Tóm lại, chính đảng là lò nung đúc cán bộ chính trị, là trường huấn luyện công dân về phương diện chính trị và đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai.
2. Vai trò phác họa danh từ và khái niệm chính trị
Về phương diện chính trị cũng như về phương diện tâm lí cá nhân, tư tưởng con người gắn liền với ngôn ngữ. Muốn thảo luận chính trị, cần phải thấu hiểu một số ngôn ngữ chính trị. Nếu không có danh từ, khái niệm chính trị thì trong một xã hội nào đó, chỉ có những sự biểu lộ tình cảm, đả đảo và hoan hô suông mà thôi. Chính những chính đảng đem lại ngôn ngữ chính trị. Những danh từ hay khái niệm mà chúng ta thường nghe như: dân chủ, độc tài, cách mạng, Quốc hội, Cộng hòa, xã hội v.v… toàn là những danh từ, nhưng dù muốn dù không những danh từ này gợi lại cho chúng ta một nội dung nhất định hay một hiện tượng đặc biệt nào đó.
Chúng ta nói rằng những danh từ ấy gợi cho chúng ta một nội dung nhất định, nhưng cần phải thành thật mà nói rằng sở dĩ như thế là vì chúng ta có cái may mắn hiểu biết ít nhiều về luật pháp hay chính trị. Trái lại, còn hàng triệu công dân không có cái may mắn ấy và không bao giờ nắm vững những ngôn ngữ ấy, nếu không có chính đảng.
Vẫn biết rằng, những khái niệm ấy có thể quá trừu tượng và quá đơn sơ. Nhưng chính nhờ nó mà công dân mới có thể chọn lựa và tỏ ý kiến. Để chứng minh điều này, các bạn nên nhớ rằng trong nhiều nước chậm tiến, chính quyền bắt buộc phải dán tên những chính đảng nào là con voi, con bò hay một hình ảnh nào khác để dễ phân biệt. Tại sao? Vì dân quá dốt nên không hiểu ngôn ngữ chính trị. Lẽ dĩ nhiên trong một xứ mà công dân đều biết đọc, biết viết, trình độ hiểu biết càng ngày càng cao, ngôn ngữ chính trị được tuyên bố nhiều thì hình ảnh không còn lí do tồn tại nữa. Điều cần nhấn mạnh là chính đảng có vai trò phác họa những khái niệm và danh từ chính trị.
3. Vai trò chính trị hóa các vấn đề
Chính đảng là những tổ chức có nhiệm vụ tổng hợp các vấn đề, đưa các vấn đề lên một mực độ đại cương, đặt các vấn đề trong một khung cảnh chính trị và cho mỗi vấn đề một ý nghĩa chính trị. Trong thực tế, mỗi người chúng ta nhìn các vấn đề với khía cạnh riêng biệt, và chỉ để ý đến vấn đề liên hệ trực tiếp đến chúng ta. Trái lại, chính trị là tất cả và đồng thời là đại cương và tổng quát. Một quyết định chính trị là một giải pháp của một vấn đề được đặt ra trong một khung cảnh tổng quát, đối với những vấn đề khác.
Yếu tố quyết định của một giải pháp chính trị không phải tính toán một cách tỉ mỉ, rõ ràng những con số, không phải đi sâu vào chi tiết, mà trái lại là lựa chọn. Một sự lựa chọn căn bản giữa hòa hay chiến, kĩ nghệ nặng hay kĩ nghệ nhẹ, chú trọng đến nông thôn hay thị xã v.v…, tất cả các vấn đề khác phải được đặt và giải quyết đối với những lựa chọn căn bản ấy.
Chính những đảng phái chính trị đem lại cho đảng viên mình, nghĩa là cho một số công dân, cái nhìn tổng quát như thế và làm cho đảng viên nhận thức vấn đề theo một tiêu chuẩn chính trị. (Vai trò này, các đảng cộng sản đảm đương một cách tích cực và hiệu quả.)
Trong cuộc sinh hoạt chính trị dân chủ, chính đảng phải đóng vai trò quan trọng là chính trị hóa các vấn đề được đặt ra. Công dân một khi được huấn luyện như thế, nghĩa là thấu hiểu ý nghĩa chính trị của các vấn đề trong một khung cảnh đại cương chắc chắn sẽ ý thức rõ trách nhiệm của mình không những đối với cuộc sống riêng tư mà còn đối với sự sinh tồn của Tổ quốc.
4. Vai trò tiêu chuẩn
Chính đảng cũng như lá phiếu là những dụng cụ, phương tiện của một sự chọn lựa. Bắt buộc hay yêu cầu công dân đi bầu không có ích lợi gì nếu công việc bầu cử không có cái ý nghĩa là lựa chọn. Trong những cuộc tuyển cử – khi công dân đi bầu dân biểu Quốc hội hay Tổng thống – làm sao công dân lựa chọn nếu không có chính đảng trình ứng cử viên và chương trình của họ? Vẫn biết rằng bất cứ một cá nhân nào cũng có quyền ra ứng cử và có thể có chương trình. Nhưng đó là một tình trạng vô kỉ luật và bất hữu hiệu. Chọn lựa giữa ba nhân vật hay ba chính đảng là việc khó khăn rồi.
Chính đảng không những là tiêu chuẩn, mà còn đóng vai trò quan trọng là thu hẹp lại, giới hạn những tiêu chuẩn để lựa chọn. Và dân chúng sẽ dựa vào đó mà chọn nhà cầm quyền và bầy tỏ ý chí của mình một cách dễ dàng.
Không những là tiêu chuẩn của một sự lựa chọn, chính đảng còn là tiêu chuẩn của sự thực hiện sự lựa chọn ấy. Công dân đâu phải tín nhiệm một chính đảng rồi thôi. Lựa chọn và tín nhiệm một chính đảng để chính đảng này thực hiện chương trình và chính sách của mình. Xuyên qua sự thực hiện đó, công dân sẽ quyết định tiếp tục hay rút lại sự tín nhiệm của mình. Chính đảng là dụng cụ thể hiện ý chí của dân chúng trong một giai đoạn nhất định.
Tóm lại, xuyên qua những vai trò mà chúng ta vừa kể – huấn luyện công dân và đào tạo nhà lãnh đạo tương lai – phác họa danh từ chính trị hóa các vấn đề – tiêu chuẩn của sự lựa chọn – chính đảng có một tầm quan trọng trong cuộc sinh hoạt chính trị và chính đảng là cơ quan biểu hiện và tạo thành ý chí quốc gia. Và qua sự trung gian của chính đảng, công dân tích cực và trực tiếp tham gia vào sinh hoạt chính trị.
D. MỰC ĐỘ THAM GIA CỦA CÔNG DÂN VÀO CHÍNH ĐẢNG
Tham gia vào chính đảng là một danh từ tổng quát. Ảnh hưởng của sự tham gia rất khác biệt tùy theo ở mực độ tham gia. Một cách tổng quát, chúng ta có thể nhìn thấy bốn loại công dân tham gia vào đời sống chính đảng: cử tri, công dân có cảm tình, hội viên và chiến hữu.
1. Cử tri: là những công dân bỏ phiếu cho chính đảng. Họ không phải là đảng viên, nhưng mỗi khi có tuyển cử là họ bỏ phiếu cho ứng cử viên do đảng đưa ra. Mà sử dụng lá phiếu cho một chính đảng là hành vi tham gia vào cuộc sinh hoạt chính đảng. Nhưng đó là một sự tham gia ở mực độ kém nhất.
2. Cảm tình viên: là những công dân không gia nhập đảng nhưng có nhiều cảm tình với đảng. Họ tán đồng quan điểm chính trị, họ theo dõi hoạt động của chính đảng. Họ mua và đọc báo của đảng và lẽ dĩ nhiên, bầu cho đảng (hạng công dân sợ liên hệ đối với địa vị và nghề nghiệp).
3. Đảng viên: thường tìm thấy ở chính đảng quần chúng là những công dân ghi tên vào đảng, có thẻ và đóng nguyệt liễm hay niên liễm đều đều, tham gia vào các cuộc hội họp của đảng, có thể giữ một chức vụ trong guồng máy hành chính của đảng.
4. Chiến hữu: là những đảng viên hoạt động. Tất cả các công tác của chính đảng dựa trên hoạt động của loại đảng viên này. Tuyên truyền cho đảng, phổ biến khẩu hiệu, dán những bích chương, phát truyền đơn, bán báo cho đảng v.v… Những chiến hữu này là những con người tối cần của đảng nhất là trong giai đoạn vận động tuyển cử. Vì chính họ đảm nhiệm tất cả việc tổ chức và vận động cử tri bỏ phiếu cho đảng.
Đoạn 2: NHỮNG TỔ CHỨC KHÔNG MỤC TIÊU CHÍNH TRỊ
Những tổ chức này là tổ chức có tính cách văn hóa, xã hội, tôn giáo, nghề nghiệp v.v… Mục tiêu không phải là chính quyền, bênh vực hay phổ biến một ý tưởng, một quyền lợi. Hoạt động của các tổ chức này lắm khi có một tính cách chính trị và thực tại xã hội có thể đưa họ trong rất nhiều trường hợp, đến một lập trường chính trị.
Lí do của sự kiện này là giữa các vấn đề trong xã hội ngày nay có một sự liên đới rõ rệt và càng ngày càng gia tăng. Thật vậy, trong xã hội phức tạp ngày nay, rất khó mà phân tích và giải quyết một vấn đề gì – một vấn đề thoạt tiên chỉ có tính cách kĩ thuật, nghề nghiệp hay tôn giáo – nếu không đặt rõ nguyên nhân chính trị của nó.
A. Những tổ chức không mục tiêu chính trị này gồm có hai loại:
Loại thứ nhất gồm những tổ chức không đả động gì đến chính trị và rất dè dặt khi đề cập đến việc huấn luyện chính trị. Họ thường dùng danh từ công dân (hiệp hội, tổ chức, thanh niên, nghiệp đoàn…).
Loại thứ hai gồm những tổ chức thẳng thắn tuyên bố học tập, nghiên cứu chính trị (phong trào hòa bình, phong trào chống kì thị chủng tộc, hội bảo vệ dân quyền và nhân quyền…).
B. Những tổ chức này góp phần vào việc cấu tạo công luận và đưa công dân dự vào sự diễn tiến của quyết định chính trị. Góp phần vào việc cấu tạo công luận, nghĩa là đảm nhiệm trách vụ huấn luyện công dân, và trong cuộc huấn luyện các đoàn thể giúp nhiều cho việc chống lại những hậu quả tai hại của sự hững hờ, thái độ thụ động của công dân. Những buổi nói chuyện, những lớp tu nghiệp hay là báo chí của đoàn thể bổ khuyết một phần nào sự thiếu sót về phương diện thông tin của công dân.
Không những góp phần vào việc cấu tạo công luận, những tổ chức này còn đưa công dân dự vào sự diễn tiến của quyết định chính trị. Thật vậy, dù muốn dù không, những tổ chức này, một phần nào, đóng vai trò những đoàn thể áp lực. Họ có thể dồn hoạt động của Chính phủ theo một chiều hướng nhất định, vào một con đường quyết định. Hoặc họ cố gắng thúc đẩy hay cản trở những quyết định quan trọng liên quan ít nhiều đến đoàn thể họ.
Tóm lại, chúng ta đứng trước một hiện tượng cực kỳ quan trọng: hành vi chính trị của những tổ chức không mục tiêu chính trị. Tuy nhiên, qua hai vai trò mà chúng ta vừa thấy, qua sự trung gian của các tổ chức không mục tiêu chính trị này, công dân tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị. Nói một cách khác, chính những tổ chức này làm cho sự tham gia của công dân – không phải là đảng viên – được dễ dàng hơn nhiều.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II: GIẢI THÍCH VỀ SỰ BẤT THAM GIA CHÍNH TRỊ
Tham gia bất thường, yếu ớt, vì tính cách không bó buộc của hoạt động chính trị
a. Chính trị có tiếng xấu.
Đây là một điểm quan trọng và chính yếu. Đối với đa số công dân, nói đến chính trị, người ta liên tưởng đến một địa hạt của những sự mua bán, đổi chác, xảo trá, đến một địa hạt mà quyền lợi của bè phái được xem là hơn cả. Công dân và nhất là cử tri có ý kiến không tốt đối với những sự mua bán ở hành lang Quốc hội, cho rằng các ông dân biểu lãnh lương quá nhiều đối với công việc làm thật sự.
Thêm vào đó, báo chí lại thổi phồng lên: những bức ảnh khôi hài chế nhạo những nhà chính trị, làm sai sự thật và chỉ nêu lên những điều không hay về sinh hoạt chính trị. Những tư tưởng không hay về chính trị được khai thác một cách quá đáng nhằm mục tiêu thương mại làm cho công dân càng thêm có những định kiến sai lầm về chính trị.
Vì thế mà mỗi khi có một sự thay đổi quan trọng nào thì người ta luôn luôn nghe nào là phải quét cho sạch, nào là phải thay đổi hẳn, nào là phải chặn lại những cường hào ác bá, nào là phải nói sự thật cho nhân dân và tất cả sự thật v.v… Những hiện tượng như thế chứng minh một phần nào thành kiến của công dân đối với chính trị: chính trị là xảo trá, thủ đoạn, lường gạt, cường hào ác bá, làm Tổng trưởng để hốt bạc và hách dịch. Chính trị là bệnh dịch hạch.
b. Những nguy cơ của chính trị
Trong những chính thể độc tài, lẽ tất nhiên những tự do chính kiến và tự do phát biểu không được nhìn nhận và bảo đảm, những nguy cơ này là một sự thật.
Nhưng chính trong những chính thể dân chủ, những cuộc chính biến hay những thay đổi tình thế có thể đem lại không ít nguy hiểm đến công dân. Khi mà công dân thấy tận mắt mình, những oai quyền hôm qua, hôm nay lại thành tù tội và phải bị sa lầy, khi họ tận mắt thấy rằng chính trị là lên voi xuống chó, thì dù rằng họ biết lẽ thông thường và sự trừng phạt là đúng đi nữa, họ không thể không rút ra một bài học chính xác, và bài học đó là thận trọng.
Hơn nữa công dân, trước khi tích cực tham gia chính trị, lại nghĩ đến ảnh hưởng của chính trị đến đời tư của họ, đến gia đình hay địa vị xã hội của họ. Chính trị hay phân li. Và một câu đầy ý nghĩa mà người ta thường thường hay nghe là: “Sở dĩ ở đây công việc chạy vì chúng tôi không làm chính trị”.
Những nguy cơ chính trị còn nhiều hơn nữa về phương diện nghề nghiệp: một anh thợ biết rằng ông chủ mình sẽ sa thải những người nào cầm đầu, kẻ chủ mưu, một nhà buôn ngại rằng khách hàng của mình sẽ không lui tới cửa hàng mình nếu anh có một lập trường chính trị.
Vì sợ những nguy cơ ấy, mà công dân tự kìm chế lấy mình, không tham gia vào bất cứ tổ chức nào, chính đảng hay nghiệp đoàn, và sự kìm chế này đi đến một mực độ mà họ từ khước thảo luận chính trị tại sở làm và không mang theo mình tờ báo mà người ta cho rằng của một chính đảng nhất định.
c. Cảm giác bất lực
Công dân có thể liều lĩnh hơn, bớt thận trọng hơn, nếu họ nhận thức được rằng hoạt động chính trị của họ có hiệu quả. Nhưng họ thường có cảm giác rằng, dù họ có làm gì đi nữa, họ vẫn bất lực.
Và cảm giác này có tính cách tổng quát, và dựa trên ý thức rằng con người quá cô đơn trong xã hội và dù cho mình muốn tham gia đi nữa, sự tham gia của một cá nhân giữa hàng ngàn, hàng triệu người có thể ví như một hạt nước ở biển khơi.
Yếu tố địa dư, xã hội: mực sống và điều kiện hiểu biết của công dân.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (8)

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (8)

Tháng 9 1, 2013
THIÊN THỨ BA: SỰ THAM GIA CHÍNH TRỊ CỦA CÔNG DÂN TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ
VẤN ĐỀ THAM GIA CHÍNH TRỊ
Trong những năm gần đây, nhiều cuộc sưu tầm, nghiên cứu của khoa chính trị học tiết lộ rằng sự tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị kém phần đắc lực. Đây là một hiện tượng chính trị mà người ta tìm thấy không những trong các nước mà mức sống đã lên cao, mà luôn cả trong những quốc gia mới nữa. Và là một hiện tượng cực kỳ quan trọng liên hệ mật thiết đến nền dân chủ cận đại. Người ta có thể quả quyết rằng chính vì công dân không lưu tâm cho mấy đến cuộc sinh hoạt chính trị, vì, công dân chịu đựng hơn là hoạt động để ảnh hưởng đến đời sống chính trị mà khuynh hướng độc tài có cơ hội phát triển.
Nếu chính thể dân chủ – như mọi người đã biết – có ý nghĩa sâu xa là toàn dân tự quyết định lấy vận mệnh của mình, thì vấn đề then chốt là vấn đề công dân tham gia chính trị.
Cần phải nhận định ngay rằng tham gia chính trị không có nghĩa là tham gia chính quyền! Nó cũng không có nghĩa là cúi đầu tuân lệnh.
*
Mỗi người trong chúng ta đương nhiên là phần tử của một xã hội chính trị, vì mỗi người chúng ta đã được sinh ra và sống trong xã hội ấy. Dù muốn dù không, chúng ta thuộc về một xã hội chính trị. Nhưng thuộc về một xã hội chính trị là một chuyện, mà ý thức tầm quan trọng của mối tương quan giữa mình và xã hội ấy và cùng chung một định mệnh là một vấn đề khác nữa.
Thường thường công dân chỉ nhận thức được xã hội chính trị qua những sự kìm chế, sự cưỡng bách đè nén lên đầu họ để rồi khi nói đến Quốc gia, Nhà nước, họ không khỏi có một thái độ thờ ơ, một cái nhìn lãnh đạm. “Chúng nó”, “Các ổng”… là những danh từ chỉ chính quyền và gián tiếp phủ nhận vai trò đại diện, và thái độ thờ ơ đối với thời cuộc vẫn tiếp diễn giữa lúc sự sống còn của đất nước được đặt ra.
Tất cả vấn đề là phải đảo ngược khuynh hướng tai hại này và chỉnh đốn cuộc sinh hoạt chính trị. Nói đến sinh hoạt chính trị là nói đến tất cả những hành vi của công dân nhằm mục tiêu hướng dẫn bộ máy chính quyền. Tham gia chính trị  – ở đây là tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị  – chỉ có nghĩa là khi nó được thể hiện qua sự can thiệp của công dân vào những vấn đề công cộng.
Sự tham gia này – điều kiện tất yếu để tránh ngay khuynh hướng độc tài và củng cố cuộc sinh hoạt chính trị dân chủ – không được nhiều người chú ý. Và thái độ bất tham gia, thái độ thụ động vẫn tiếp tục ngự trị trong thực tế và trong lòng người.
CHƯƠNG I: TUYỂN CỬ
Mục I: CHẾ ĐỘ TUYỂN CỬ VÀ ĐẶC TÍNH CỦA ĐẦU PHIẾU
Đoạn 1: CHẾ ĐỘ TUYỂN CỬ
Ngày nay, với sự tiến triển của tư tưởng dân chủ, chế độ tuyển cử là chế độ phổ thông đầu phiếu. Tuy nhiên, cần phải ý thức ngay rằng hiện tượng này là thành quả của bao thế kỉ đấu tranh của các dân tộc trên thế giới hầu giành quyền bầu cử. Trước đây – và giờ này trong một vài nước – chế độ tuyển cử không có tính cách phổ thông, rộng rãi và trái lại quyền đầu phiếu bị hạn chế rất nhiều: đó là chế độ hạn chế đầu phiếu. Chúng ta sẽ lần lượt trình bày hai chế độ này:
A. Chế độ hạn chế đầu phiếu
Có hạn chế đầu phiếu khi nào quyền bầu cử không phải là quyền đương nhiên của mỗi công dân. Có đầu phiếu hạn chế khi nào quyền bầu cử chỉ dành cho những công dân hội đủ một vài điều kiện như tài sản, học lực, giai cấp xã hội, chủng tộc.
1. Hình thức thứ nhất của hạn chế đầu phiếu là chế độ đầu phiếu theo thuế ngạch: ở đây điều kiện đòi hỏi là tài sản: nghĩa là chỉ có quyền bầu cử những công dân nào có đóng một số thuế tối thiểu được ấn định trước. Những người chủ trương chế độ đầu phiếu theo thuế nghạch quan niệm rằng chỉ có những người có thể đóng thuế – nghĩa là những người có tài sản mới thực là những công dân tha thiết với việc quốc gia. Chính những người này mới có quyền bầu cử, nghĩa là tham gia vào việc chọn lựa nhà cầm quyền – vì chính họ là những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi những quyết định của chính quyền.
Trên đây chỉ là một quan niệm quá chật hẹp, quá vật chất về tác dụng của tuyển cử. Không phải có tài sản mới quan tâm đến quốc sự, không phải chỉ có những công dân giầu có mới chịu ảnh hưởng của những quyết định của chính quyền. Thật ra, chế độ đầu phiếu theo thuế ngạch chỉ là một biện pháp nhằm kìm hãm sự tiến triển của phong trào dân chủ bằng cách truất quyền bầu cử của đại đa số công dân mà dành quyền ấy cho các địa chủ trong lúc đương thời. Không quyền bầu cử tất nhiên là không quyền ứng cử, rốt cuộc là đại diện nhân dân và nhà cầm quyền thuộc về một giai cấp nào đó.
2. Hình thức thứ hai của hạn chế đầu phiếu là chế độ tuyển cử theo năng lực; ở đây điều kiện là một trình độ học thức tối thiểu. Mục đích là loại hẳn những người được xem là không xứng đáng, ví dụ như mù chữ, không biết đọc và không biết viết. Tất cả vấn đề là chúng ta tự hỏi chế độ đầu phiếu năng lực có phải là một vi phạm quan trọng đến tính cách phổ thông của cuộc đầu phiếu hay không? Câu trả lời rất tế nhị vì nó tùy thuộc trình độ giáo dục của mỗi quốc gia. Trong một quốc gia mà giáo dục được phổ biến rộng rãi, vấn đề thất học chỉ là một ngoại lệ, thì sự kiện loại những người mù chữ chỉ là một biện pháp hữu hiệu chặn đứng những công dân thiếu năng lực. Trái lại, trong những quốc gia mà giáo dục không được phổ thông lắm, đa số vẫn còn mù chữ, dành quyền bầu cử cho người biết đọc và biết viết tức là áp dụng đầu phiếu hạn chế vi phạm đến tính cách phổ thông của tuyển cử. Áp dụng đầu phiếu hạn chế có thể là chính đáng, nhưng dù sao cũng có tính cách phản dân chủ.
Tóm lại, tùy theo trình độ giáo dục của mỗi xứ, chế độ tuyển cử theo năng lực được xem là vi phạm hay không đến tính cách phổ thông của đầu phiếu.
3. Ngoài những điều kiện về năng lực hay tài sản, người ta còn tìm thấy những hình thức hạn chế khác liên quan đến điều kiện giai cấp hay chủng tộc. Hạn chế đầu phiếu còn có một hình thức khác nữa liên quan đến vấn đề phụ nữ. Phụ nữ có quyền đi bầu hay không là một đầu đề được tranh luận sôi nổi. Vì đây là một khía cạnh của vấn đề nam nữ bình quyền.
Những người chủ trương truất quyền bầu cử của phụ nữ cho rằng:
  • Phụ nữ, bản tính yếu ớt rồi, tất nhiên là khác nam nhi.
  • Phụ nữ không gánh vác nhiều việc nước nhất là không thi hành quân dịch.
  • Phụ nữ có nhiệm vụ thiêng liêng là “tề gia nội trợ” bầu cử để làm gì; những hoạt động ngoài xã hội, nhất là chính trị dành cho nam giới.
Đó là những lí do phủ nhận quyền bầu cử của phụ nữ. Mặc dù ngày nay những lí do trên không còn xác đáng nữa, nhưng nó đã làm cản trở không ít việc phụ nữ bầu. Bằng cớ là ngay giờ phút này, phụ nữ vẫn chưa có quyền đi bầu tại Thụy Sĩ. Và tại Hoa Kỳ phụ nữ có quyền bầu cử ở năm 1920, ở Anh 1928, tại Pháp 1945.
Tóm lại, qua những hình thức mà chúng ta vừa thấy đó, phụ nữ, chủng tộc, giai cấp, năng lực hay tài sản chế độ hạn chế đầu phiếu đã được áp dụng rất lâu. Nhưng đây là một chế độ giao-thời và chế độ này đã nhường chỗ cho chế độ phổ thông đầu phiếu trong rất nhiều quốc gia trên thế giới ngày nay.
B. Chế độ phổ thông đầu phiếu
Có phổ thông đầu phiếu là khi nào quyền bầu cử của công dân không bị hạn chế bởi những điều kiện về tài sản, học lực, giai cấp v.v… Trong chế độ phổ thông đầu phiếu tất cả công dân không phân biệt, có học hay thất học đều có quyền đi bầu.
Tuy nhiên phổ thông đầu phiếu không có nghĩa là bất cứ công dân nào cũng có quyền đi bầu cử. Dù đầu phiếu có phổ thông, cũng còn có những loại người mà quyền đầu phiếu bị phủ nhận.
1. Loại thứ nhất: những vị thành niên
Người ta quan niệm rằng sử dụng lá phiếu là một điều tối quan trọng vì tác dụng của nó là chọn lựa nhà cầm quyền, một điều tối quan trọng như vậy, một hành vi căn bản như thế, những vị thành niên – nghĩa là những con người chưa đủ lí trí, chưa hiểu biết – không thể làm được.
Nhưng tuổi nào là tuổi trưởng thành để có quyền sử dụng lá phiếu? Ấn định một con số tùy thuộc ở mỗi quốc gia và trong giai đoạn lịch sử của quốc gia đó. Thường thường là 21 tuổi nhưng cũng có thể dưới 21 hay trên 21.
Ở Việt Nam ta[i], chiểu theo Dụ số 8 ngày 23-4-1956, tuổi trưởng thành để có quyền đi bầu cử là 18 tuổi. Và Sắc luật ngày 19-6-1966 ấn định thể thức bầu cử Quốc hội Lập hiến trong điều 4 có ấn định rằng: “Cử tri trong mỗi đơn vị bầu cử là những người có quốc tịch Việt Nam, bất luận nam hay nữ, đủ 18 tuổi”.
2. Loại thứ hai: những người điên
Ở đây là những người đã được xác nhận là có bệnh loạn óc và bị giữ tại nhà thương điên. Và những người bị cấm vì trí óc thiếu minh mẫn. Tất cả những người này đều không quyền đi bầu.
3. Loại thứ ba: những người không xứng đáng
Không xứng đáng nghĩa là những ai can tội thường phạm về đại hình hoặc tiểu hình: giết người, trộm cướp, lừa gạt, biển thủ v.v… Tất cả những người này không còn xứng đáng là công dân một nước tự do và mất quyền bầu cử. Có thể xem như không xứng đáng những công dân đã cộng tác với địch hoặc có những hành động phản quyền lợi quốc gia trong thời kỳ bị chiếm đóng.
4. Loại thứ tư: những ngoại kiều
Ngoại kiều cư trú trong nước – vì không phải là công dân – nên không quyền đi bầu. Và dù có nhập tịch đi nữa, họ phải đợi một thời gian mới có quyền bầu cử.
Tóm lại, ngoài những loại kể trên, tất cả đều có quyền bầu cử trong một chế độ phổ thông đầu phiếu.
Đoạn 2: NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA ĐẦU PHIẾU
Đầu phiếu có thể có tính cách công khai hoặc kín, bình đẳng hoặc bất bình đẳng, trực tiếp hoặc gián tiếp, tự do hoặc cưỡng bách.
A. Đầu phiếu công khai và đầu phiếu kín
Đầu phiếu kín, ngày nay được xem là một bảo đảm quan trọng cho tự do của cử tri. Vì nếu phải công khai bầy tỏ lập trường của mình, có thể sợ rằng công dân không còn độc lập tinh thần để quyết định: công chức theo chỉ thị thượng cấp, quân nhân theo lệnh của cấp chỉ huy.
Tuy nhiên, đầu phiếu công khai thường được áp dụng tại Nghị viện trong những trường hợp quan trọng. Người ta quan niệm rằng, ít ra trước những vấn đề quan trọng, thái độ của dân biểu phải thẳng thắn rõ rệt. Và không có biện pháp nào hay cho bằng công bố những biểu quyết của dân biểu để cho các vị này ý thức trách nhiệm của mình đối với quốc gia và cử tri. Và chỉ có đầu phiếu công khai mới biết được lập trường chính trị của vị dân biểu.
B. Đầu phiếu bình đẳng và đầu phiếu phức số
Đầu phiếu bình đẳng có nghĩa là mỗi cử tri có quyền và chỉ có quyền bỏ một lá phiếu. Trái lại, với đầu phiếu phức số, một cử tri có thể bỏ được nhiều phiếu hoặc tại một nơi hoặc ở nhiều nơi, nhưng mỗi nơi bỏ một phiếu. Lịch sử nước Anh cho chúng ta thấy cách đầu phiếu phức số rất lí thú. Mỗi công dân Anh, trước năm 1951, có thể bỏ một phiếu nơi mình cư trú, một phiếu nơi có cửa hàng buôn bán, một nơi có đại học đường mà họ đã tốt nghiệp. Cách đầu phiếu này đã bị bãi bỏ vì tính cách bất công. Chỉ có người cử tri giầu, có phương tiện mới sử dụng được.
Tuy nhiên, dưới một hình thức khác, đầu phiếu phức số còn được chủ trương: đó là đầu phiếu gia đình, người ta cho rằng chủ gia đình phải có quyền bỏ một số phiếu ngang với số con vị thành niên hoặc mỗi chủ gia đình có thêm một phiếu khi con số con bằng hay hơn con số nhất định (ví dụ 3 con trở lên). Lí do đưa ra là chủ gia đình có con đông, có trách nhiệm nhiều trong xã hội. Cần phải nhận định ngay rằng có những chủ gia đình bê bối và có những kẻ độc thân nhưng rất quan tâm đến việc công. Hơn nữa, tại sao lại chủ gia đình đại diện cho con? Hoặc những đứa con này có một ý chí rõ ràng và đủ trí không để thể hiện ý chí đó thì để cho chúng nó quyết định: vấn đề là hạ thấp tuổi trưởng thành để có quyền đi bầu. Hoặc nếu luật pháp cho rằng chúng nó không đủ sáng suốt để sử dụng lá phiếu thì có lí do nào để cho người cha đại diện, và đại diện cho ai?
C. Đầu phiếu trực tiếp và đầu phiếu gián tiếp
Đầu phiếu trực tiếp có nghĩa là cử tri bầu thẳng, một cách trực tiếp, những nhà cầm quyền. Trái lại, với đầu phiếu gián tiếp, cử tri bầu trước hết một số đại diện – thường gọi là “cử tri đệ nhị cấp” – rồi các đại diện này mới bầu nhà cầm quyền qua một cuộc bầu cử thứ hai. Đầu phiếu gián tiếp có thể áp dụng với nhiều trật: 2 trật, 3 trật…
Đầu phiếu gián tiếp đã đóng một vai trò quan trọng ở thế kỉ trước, khi mà những phương tiện giao thông cùng những kĩ thuật thông báo không được nhanh lắm thành thử giữa cử tri và đại diện cần phải có một sự trung gian. Ngày nay những lí do này không còn nữa và đầu phiếu trực tiếp được thông dụng.
Tuy nhiên, đầu phiếu gián tiếp vẫn còn được áp dụng trong việc tổ chức cơ quan công quyền của một quốc gia liên bang, nhất là để bầu đại diện ở Thượng Nghị viện.
D. Đầu phiếu tự do và đầu phiếu cưỡng bách
Đầu phiếu tự do có nghĩa là tùy ý cử tri đi hay không đi bầu. Đầu phiếu cưỡng bách có nghĩa là có một sự bắt buộc pháp lí cử tri đi bầu. Cần phải thêm rằng cưỡng bách không có nghĩa một sự kềm chế thân thể cử tri mà trái lại sẽ có một sự chế tài nào đó đối với công dân không tham gia cuộc đầu phiếu. Nguyên tắc cưỡng bách đầu phiếu dựa trên hai ý tưởng chính: thứ nhất bỏ phiếu là một nhiệm vụ mà đương sự không thể tự mình từ chối; thứ hai sự bất tham gia của công dân sẽ làm mất ý nghĩa của cuộc đầu phiếu.[ii]
Mục II: THỂ THỨC ĐẦU PHIẾU
Sau khi đã xét qua chế độ tuyển cử và phân tích đặc tính của đầu phiếu, bây giờ chúng ta tự hỏi theo cách nào, công dân sẽ chọn lựa nhà cầm quyền. Đó là thể thức đầu phiếu. Trong mục này chúng ta sẽ lần lượt trình bày một vài quy tắc trước khi đề cập đến những thể thức của đầu phiếu.
Đoạn 1: MỘT VÀI QUY TẮC TỔ CHỨC
A. NHỮNG VẤN ĐỀ HÀNH CHÍNH
Trong mọi cuộc tuyển cử, luôn luôn có một số vấn đề liên quan đến cử tri và ứng cử viên mà chúng ta cần thấu hiểu.
1. Về phía cử tri
* Số cử tri: tất cả nam nữ công dân có quyền bầu cử.
* Số cử tri có trong danh sách: tất cả công dân có quyền đi bầu và có tên trong danh sách ở mỗi đơn vị bầu cử. Đây là một điều cần ghi nhớ. Để có thể đi bầu, mỗi công dân phải có tên trong danh sách cử tri và có thẻ cử tri hợp lệ.
Thường thường, cơ quan hành chính thiết lập và niêm yết danh sách cử tri trong mỗi đơn vị hai lần: lần thứ nhất lối 2 tháng trước ngày bầu cử và lần thứ nhì lối 1 tháng trước ngày bầu cử.
Công dân nào có đủ điều kiện bầu cử mà bị sót tên hoặc nhận thấy có sự lầm lẫn trong việc ghi tên trong danh sách cử tri, đều có quyền khiếu nại.
* Số cử tri đi bầu: tất cả các cử tri có đến phòng phiếu và bỏ lá phiếu vào thùng phiếu.
* Số phiếu có giá trị: Kể như bất hợp lệ và vô giá trị những trường hợp sau đây: phong bì không đựng gì cả; phong bì đựng những giấy tờ khác lá phiếu đã phát ra; lá phiếu không nằm trong phong bì; lá phiếu bị xé mất hết tên họ ứng cử viên; phong bì đựng hơn một lá phiếu; phong bì hay lá phiếu có viết thêm chữ hay ghi thêm dấu hiệu; tên khác.
2. Về phía ứng cử viên
Ứng cử viên đương nhiên phải là cử tri có quyền đi bầu. Tuy nhiên thường thường luật lệ còn quy định một số điều kiện khắc khe liên quan đến ứng cử viên. Để lấy thí dụ cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến ngày 11-9-1966: có quyền ứng cử Dân biểu Quốc hội Lập hiến những nam nữ công dân hội đủ các điều kiện sau đây:
  • Có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi sinh hoặc đã nhập tịch Việt ít nhất 5 năm, hoặc đã hồi Việt tịch ít nhất 3 năm tính đến ngày bầu cử.
  • Đủ 25 tuổi.
  • Không bị liệt vào những trường hợp vô tư cách. (Ví dụ có án phạt về tiểu hình, đại hình, khánh tận, sa thải v.v…)
Ngoài ra, không được quyền ứng cử trong địa hạt nhiệm sở những người đang đảm nhiệm các chức vụ sau đây và những người phối ngẫu của họ:
  • Các Đô trưởng, Thị trưởng, thẩm phán, cấp chỉ huy ngành cảnh sát, các sĩ quan, hạ sĩ quan v.v…
Vì đây là những chức vụ điều khiển, người ta ngại rằng có thể có áp lực dễ dàng đối với cử tri và đồng thời dùng phương tiện chính quyền đưa đến sự thiếu bình đẳng giữa ứng cử viên.
B. ĐẦU PHIẾU ĐƠN DANH HAY ĐẦU PHIẾU LIÊN DANH
1. Đầu phiếu được xem là đơn danh là khi nào trong một đơn vị tuyển cử, cử tri chỉ có quyền bầu một ứng cử viên.
Đầu phiếu liên danh có nghĩa là trong mỗi đơn vị tuyển cử, cử tri có quyền bầu hai hay nhiều ứng cử viên. Đầu phiếu liên danh có hai loại:
* Loại thứ nhất: ứng cử viên tranh cử một cách rời rạc.
* Loại thứ hai: một danh sách ứng cử thành lập, tùy theo chính đảng hay nhóm có khuynh hướng chính trị khác nhau. Ví dụ trong một đơn vị tuyển cử, có ba ghế phải bầu, thì mỗi danh sách phải ghi tên ba ứng cử viên. Cử tri khi bỏ phiếu tùy theo luật bầu cử của mỗi xứ có thể có hai thái độ:
  • Hoặc họ bắt buộc phải bỏ cho cả danh sách.
  • Hoặc họ có quyền lựa chọn và gạch tên những người mà họ không muốn bầu và thay vào bằng tên ứng cử viên thuộc một danh sách khác.
2. Thể thức đơn danh hay liên danh đầu phiếu liên quan đến vấn đề ấn định địa giới các đơn vị tuyển cử. Nếu lãnh thổ được phân chia ra nhiều đơn vị tuyển cử nhỏ bé, và mỗi đơn vị chỉ có một ghế, thì lẽ tất nhiên đầu phiếu phải là đầu phiếu đơn danh. Trái lại, nếu đơn vị tuyển cử được ấn định một cách rộng rãi – ví dụ như nếu chúng ta lấy một tỉnh để làm đơn vị tuyển cử – mỗi tỉnh ít ra cũng có một số dân biểu thì lẽ tất nhiên đầu phiếu là đầu phiếu liên danh.
3. Đơn danh hay liên danh đầu phiếu đều có những ưu và khuyết điểm.
* Để bênh vực lối đơn danh đầu phiếu, người ta cho rằng theo thể thức này cử tri biết rõ ứng cử viên hơn. Vì đơn vị tuyển cử là một đơn vị nhỏ, ứng cử viên nhất định phải là người mà cử tri biết nhiều. Hơn nữa, ra tranh cử một mình, đơn thương độc mã, ứng cử viên phải cổ động mạnh và như thế, đức độ, tài năng của ứng viên sẽ được cử tri phán đoán một cách xác thực. Trong lúc đó, theo lối liên danh đầu phiếu, thường thường người ta thấy những danh sách với ứng cử viên vô danh bất tài. Họa may chỉ có người đứng đầu danh sách là có tên tuổi, còn lại toàn là người có tên mà chính đảng cố ghép vào để cho danh sách đầy đủ đó thôi.
* Để bênh vực lối liên danh đầu phiếu, người ta cho rằng đơn danh đầu phiếu hay đưa đến những cuộc tranh luận giữa người và người, cuộc tranh giành giữa cá nhân có ảnh hưởng, thế lực hậu quả không tốt đẹp như: xâm phạm đến đời tư, đến thanh danh của ứng cử viên…Toàn là những chi tiết vớ vẩn, những ganh tị thấp hèn. Trái lại, với lối liên danh đầu phiếu – nhất là với hình thức danh sách – cuộc vận động tuyển cử sẽ hướng về chính đảng, và khuynh hướng chính trị, nghĩa là sự phán đoán của cử tri sẽ dựa trên những tiêu chuẩn chính trị, những chương trình, ý tưởng, chính sách v.v…
Đó là những ưu và khuyết điểm mà người ta thường đưa ra để bênh vực cho hai thể thức đơn danh và liên danh. Sự thật, kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng mỗi thể thức không hẳn có những hậu quả đương nhiên như thế. Tùy theo truyền thống, theo tình hình chính trị, tùy theo trình độ giáo dục chính trị của mỗi xứ, đơn danh hay liên danh cũng có thể đưa đến những cuộc tranh luận về chính sách hay những cuộc tranh giành cá nhân.
Đoạn 2: ĐẦU PHIẾU THEO ĐA SỐ VÀ ĐẦU PHIẾU THEO TỶ LỆ
Đây là hai thể thức đầu phiếu quan trọng được áp dụng trong rất nhiều quốc gia.
A. ĐẦU PHIẾU THEO ĐA SỐ
Đầu phiếu theo đa số nghĩa là trong mỗi đơn vị tuyển cử, ứng cử viên nào nhiều phiếu hơn cả thì đắc cử. Đầu phiếu theo đa số có hai hình thức: Đầu phiếu theo đa số với một vòng và đầu phiếu theo đa số với hai vòng. Với thể thức thứ nhất – đầu phiếu theo đa số với một vòng – kết quả sẽ có ngay sau khi đầu phiếu – vì với thể thức này, một đa số tương đối cũng đủ để đắc cử. Và dù trong trường hợp có đồng phiếu, thường vị cao niên đắc cử.
Trái lại với thể thức thứ nhì – đầu phiếu theo đa số với hai vòng – tính cách của đa số được ấn định khắt khe hơn. Trong vòng thứ nhất, chỉ được đắc cử ứng cử viên nào thu được đa số tuyệt đối tổng số phiếu có giá trị. Nếu không một tuần hay hai tuần sau, cử tri lại phải đi bầu lần thứ nhì mà trong vòng thứ nhì này, đa số tương đối đủ để đắc cử.
B. ĐẦU PHIẾU THEO TỈ LỆ
Đầu phiếu được xem là đầu phiếu theo tỉ lệ khi nào số ghế trong một đơn vị tuyển cử được chia cho các danh sách ra tranh cử theo tỉ lệ số phiếu của mỗi danh sách. Đầu phiếu theo tỉ lệ hết sức phức tạp. Có nhiều hình thức về đầu phiếu theo tỉ lệ. Chúng ta chỉ đề cập ở đây thể thức đơn giản nhất nhưng cũng rắc rối rồi. Thể thức đầu phiếu theo tỉ lệ đòi hỏi chúng ta giải quyết nhiều bài toán.
1. Bài toán thứ nhất
Trong một đơn vị tuyển cử nhất định:
  • Số ghế phải bầu là bao nhiêu?                                        5
  • Tổng số cử tri đã bỏ phiếu là bao nhiêu?                   100.000
2. Bài toán thứ hai
Ấn định thương số tuyển cử hay là số chia tuyển cử: nghĩa là lấy tổng số cử tri đã bỏ phiếu trong đơn vị tuyển cử chia cho số ghế phải bầu. Thương số đó tức là thương số tuyển cử hay là số chia tuyển cử: 100.000/5 = 20.000
 3. Bài toán thứ ba
Số phiếu của mỗi danh sách
A. 47.000
B. 21.000
C. 19.000
D. 13.000
4.  Bài toán thứ tư
Số ghế của mỗi danh sách hay là số ứng cử viên đắc cử của mỗi danh sách. Chúng ta lấy số phiếu của mỗi danh sách chia cho số chia tuyển cử:
Danh sách A: 2 ghế (47.000 : 20.000)           2
Danh sách B: 1 ghế (21.000 : 20.000)           1
Tóm lại, số ghế của mỗi liên danh sẽ được tính bằng cách chia số phiếu của liên danh cho thương số tuyển cử; cứ có bao nhiều lần thương số tuyển cử trong số phiếu nói trên thì liên danh có bấy nhiêu ghế.
5. Bài toán thứ năm
Hai ghế còn lại sẽ chia cho danh sách nào? Để giải quyết bài toán này, có hai phương pháp:
Phương pháp số dư lớn nhất và phương pháp số trung bình lớn nhất. Theo phương pháp số dư lớn nhất, người ta sẽ phân phối số ghế còn lại cho danh sách nào có số dư lớn nhất. Để lấy thí dụ của chúng ta, danh sách C, D mỗi danh sách một ghế vì hai danh sách còn nhiều phiếu dư. Với phương pháp này, kết quả cuối cùng là: A 2 ghế, B 1 ghế, C 1 ghế, D 1 ghế. Đây là một phương pháp đơn giản nhưng không công bình vì đối với danh sách A, phải có 23.500 cử tri mới được 1 ghế, trong lúc đó danh sách D chỉ cần 13.000 cũng có 1 ghế.
Phương pháp số trung bình lớn nhất, nhằm thực hiện sự công bằng trong việc phân phối các ghế còn lại. Nghĩa là cố gắng làm sao mà số ghế cấp cho mỗi danh sách tương xứng với số phiếu của mỗi danh sách.
Người ta lần lượt phân phối từng ghế một còn lại cho mỗi danh sách và xem số trung bình của danh sách nào lớn nhất. Danh sách nào có số trung bình lớn nhất sẽ thừa hưởng ghế còn lại. Ví dụ: ở trên 3 ghế phân phối rồi, còn ghế thứ tư và thứ năm.
  • Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách A thì danh sách này sẽ có 3 ghế với 47.000 phiếu, nghĩa là trung bình mỗi ghế 15.700 phiếu.
  • Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách B thì danh sách này sẽ có hai ghế với 21.000 phiếu, nghĩa là trung bình mỗi ghế 10.500 phiếu.
  • Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách C thì danh sách này sẽ có một ghế với 19.000 phiếu.
  • Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách D thì danh sách này sẽ có một ghế với 13.000 phiếu.
Danh sách C được ghế thứ tư, vì được số trung bình cao nhất.
Rồi cũng như vậy nữa cho ghế thứ năm.
  • Nếu phân phối cho danh sách A – trung bình 15.700
  • Nếu phân phối cho danh sách B – trung bình 10.500
  • Nếu phân phối cho danh sách C vừa được 1 ghế (2 ghế với 19.000) – trung bình 9.500
  • Nếu phân phối cho danh sách D – trung bình 13.000
So sánh chúng ta thấy rằng danh sách A có số trung bình trội nhất, danh sách A sẽ được ghế thứ năm. Kết quả cuối cùng, với phương pháp số trung bình lớn nhất, chúng ta có:
  • A: 3 ghế
  • B: 1 ghế
  • C: 1 ghế
C. Ý NGHĨA CỦA CÁC THỂ THỨC ĐẦU PHIẾU
Người ta đã tranh luận rất nhiều về các thể thức đầu phiếu. Những ưu và khuyết điểm của mỗi cách được đưa ra và dựa trên những yếu tố công bình và đại diện.
a. Đầu phiếu theo tỉ lệ được xem là công bình nhất vì mọi xu hướng chính trị có thể đại diện tại Quốc hội. Các đảng phái, nhỏ, lớn đều có đại diện. Người ta quan niệm rằng một Nghị viện bao gồm tất cả nguồn dư luận, khuynh hướng chính trị, tôn giáo trong nước là một Nghị viện có tính cách hoàn toàn đại diện. Một Quốc hội được bầu với lối đầu phiếu tỉ lệ phản ảnh thực sự thực trạng dư luận của một quốc gia. Đầu phiếu theo đa số, trái lại gạt bỏ một cách trắng trợn thiểu số ra ngoài Nghị viện. Hơn nữa, đôi khi chính đảng có đa số tại Quốc hội lại là thiểu số trên phương diện tổng số phiếu cử tri.
Đứng trên phương diện thuần túy công bằng, những nhận xét trên rất đúng. Tất cả vấn đề là thử hỏi một thứ công bằng giản dị như thế sẽ đưa đến đâu. Khi mà cần phải lấy một quyết định, quyết định do đa số chứ không phải theo tỉ lệ. Chúng ta có thể chọn lựa dân biểu theo tỉ lệ nhưng khi phải quyết định nghĩa là chọn lựa giữa cái này hay cái kia, danh từ tỉ lệ không còn có nghĩa nữa. Vấn đề đặt ra là tìm một thể thức đầu phiếu có thể đưa đến một cơ quan chính trị có khả năng quyết định. Theo quan niệm này – và đây là một quan điểm thực tế nhất – chúng ta có những nhận xét sau đây về giá trị của thể thức đầu phiếu.
b. Đầu phiếu theo đa số với một vòng đưa đến sự tập trung dư luận. Nói một cách khác thể thức đầu phiếu này giúp nhiều cho sự thành lập một hệ thống lưỡng đảng trong một đơn vị tuyển cử nhất định. Lí do là vì một đa số tương đối đủ để được đắc cử ở vòng đầu là vòng duy nhất, mọi chia rẽ chắc chắn sẽ đưa đến thất bại. Để lấy một ví dụ cụ thể: trong một đơn vị tuyển cử dư luận theo Đảng Bảo thủ chiếm 60% và dư luận theo Đảng Lao động 40%. Ví dụ vì một lí do nào đó, có một sự chia rẽ nội bộ của Đảng Bảo thủ. Thay vì có một ứng cử viên Bảo thủ chống lại một ứng cử viên Lao động, chúng ta thấy hai ứng cử viên Bảo thủ trong đơn vị ấy. Kết quả có thể đưa đến như thế này: 35% cho ứng cử viên Bảo thủ thứ nhất; 25% cho ứng cử viên Bảo thủ thứ nhì và 40% cho ứng cử viên Lao động. Rút cuộc: ứng cử viên Lao động đắc cử mặc dù dư luận theo phe Lao động là thiểu số ở đơn vị ấy, vì một lẽ rất giản dị là họ không bị chia rẽ.
Bởi vậy, đầu phiếu theo đa số với một vòng đưa đến sự thành lập một hệ thống lưỡng đảng trong mỗi đơn vị tuyển cử. Và những lực lượng tác giả của kết quả này là chính đảng và cử tri. Chính đảng – như chúng ta vừa thấy – để tránh kết quả tai hại một sự chia rẽ, sẽ tìm cách để đưa ra tranh cử một ứng viên xứng đáng và duy nhất.
Về phía cử tri cũng thế. Với một thể thức đầu phiếu vừa đơn giản, vừa cứng rắn như vậy, cử tri có khuynh hướng bỏ phiếu cho ứng cử viên – không phải ứng cử viên lí tưởng – mà gần họ nhất và có nhiều hi vọng đắc cử. Thực tại chính trị tại Anh Quốc cho chúng ta thấy điều đó. Ở Anh có Đảng Tự do được dư luận chú ý không ít. Nhưng ở Quốc hội đại diện của Đảng Tự do hoàn toàn như không có. Vì trong đa số đơn vị tuyển cử, ứng cử viên Đảng Tự do không bao giờ có hi vọng đắc cử, cử tri của Đảng Tự do có khuynh hướng dồn phiếu mình cho một trong hai ứng cử viên khác. Làm như thế để cho lá phiếu của họ có một tác dụng cụ thể.
Do đó tâm trạng của cử tri cũng như của chính đảng đưa đến một sự tập trung lực lượng chính trị nếu đầu phiếu theo đa số với một vòng được áp dụng
c. Trái lại, hậu quả của đầu phiếu theo tỉ lệ là một sự li tán chính đảng và dư luận. Nếu mỗi chính đảng chắc chắn rằng mình sẽ có một số đại diện tương xứng với số phiếu mà cử tri bỏ cho mình thì không có lí do gì thúc đẩy các chính đảng kết hợp lại. Các khuynh hướng, các hệ phái sẽ thi đua nhay xuất hiện và cố giữ tính cách tự trị và riêng biệt của mình. Quốc hội gồm nhiều hệ phái, chính đảng lẻ tẻ, nho nhỏ như thế, chắc chắn sẽ trở nên bất lực vì không quyết định được gì. Và với một hệ thống đa đảng như thế trong một chế độ đại nghị – chế độ mà Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, chắc chắn sẽ có khủng hoảng chính trị trầm trọng, vì Quốc hội chỉ biết lật đổ Chính phủ và không có khả năng thành lập Chính phủ. Và các khủng hoảng chính trị sẽ đưa đến một sự hỗn loạn và sẽ là những cơ hội khuynh hướng độc tài có dịp phát triển.
d. Cần phải nhấn mạnh rằng, những nhận xét trên đây chỉ có tính cách tương đối. Chúng ta không thể nói rằng – ở Việt Nam[iii] – nếu áp dụng đầu phiếu đa số với một vòng – chúng ta đương nhiên sẽ có một hệ thống lưỡng đảng. Nhưng dù sao, thể thức này là một trong những yếu tố đưa đến sự cấu tạo những lực lượng tập trung, một hệ thống chính đảng giản dị và hữu hiệu.
Mục III: VẤN ĐỀ BẤT THAM GIA CUỘC ĐẦU PHIẾU
Đi bỏ phiếu là một hành vi cực kỳ quan trọng, thể hiện sự tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị. Vẫn biết rằng đi bầu không có nghĩa là tất cả sự tham gia – vì công dân còn tham gia chính trị với nhiều hình thức khác nữa – nhưng đây là một hình thức tham gia quan trọng, dễ nhận thấy và dễ thảo luận. Thông thường, trước khi tuyển cử, trong lúc tuyển cử, có những sự vận động tuyên truyền, bao nhiêu giấy tờ, bao nhiêu tài liệu, tất cả các sự kiện ấy đều hướng về tuyển cử. Và chính tính cách công khai và vô số tài liệu nhất là về thống kê đã giúp nhiều trong việc khảo cứu tác dụng của tuyển cử trên phương diện chính trị học. Và một trong những vấn đề chính là vấn đề bất tham gia:
  • Mực độ bất tham gia
  • Nguyên do của sự bất tham gia
Đoạn 1: MỰC ĐỘ BẤT THAM GIA
Để hiểu trong một quốc gia nào đó, công dân có tham gia hay không tham gia vào một cuộc tuyển cử nhất định, chúng ta chỉ cần so sánh vài con số và biết ngay: con số về cử tri có tên trong danh sách tuyển cử và con số những cử tri đi bầu. Thoạt tiên thì dễ như thế, nhưng sự thật để có một ý niệm chính xác, vấn đề phức tạp hơn nữa. Vì so sánh hai sự kiện trên không cho chúng ta con số chắc chắn:
A. Điểm thứ nhất, chúng ta phải để ý đến những công dân không có tên trong danh sách cử tri không đi bầu mà còn có vô số công dân không chịu xem coi mình có tên trong danh sách cử tri hay không. Có những người không có tên trong danh sách cử tri tại nơi mình cư trú nhưng có tên trong danh sách ở một nơi mà họ không còn ở nữa. Chính những người này là những người không tham gia vào cuộc bầu cử.
B. Điều thứ hai là mặc dù chính quyền nhất là các tòa hành chính cố gắng rất nhiều để lập danh sách cử tri và cập nhật hóa, mặc dù thế vẫn còn nhiều thiếu sót nhất là trường hợp của công dân có tên ở hai nơi: ví dụ cử tri ở quận ba và ở một quận khác nữa.
C. Điểm thứ ba: trong số công dân không đi bỏ phiếu, cần phải ý thức rằng có một số người có lí do chính đáng đã không đi bầu: nghĩa là vì bận thật chứ không phải không muốn tham gia. Trên phương diện thống kê, thì chắc chắn là có một số người đau ốm hoặc bận công vụ.
Đó là điều mà chúng ta phải để ý khi đo lường mức độ tham gia của công dân. Vì khi mà chúng ta xem kỹ, tổng số bất tham gia có thể xuống nhiều, và như thế cuộc sưu tầm mới đem đến những kết luận tương đối khách quan và chính xác.
Đoạn 2: NGUYÊN DO CỦA SỰ BẤT THAM GIA
Tại sao công dân lại không đi bỏ phiếu? Nhất là sau khi đã chịu khó xem còn có tên mình trong danh sách cử tri và lãnh thẻ cử tri. Một câu hỏi quan trọng mà câu trả lời – tùy thuộc ở nguyên nhân – sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sinh hoạt chính trị. Yếu tố liên hệ đến cá nhân, đến thời cuộc về ý nghĩa của cuộc tuyển cử.
A. YẾU TỐ CÁ NHÂN liên hệ đến cá nhân mỗi người cũng như gia đình, nghề nghiệp
  • Nam giới hay nữ giới: nữ giới ít đi bỏ phiếu.
  • Tuổi tác: trẻ tuổi và già ít đi bỏ phiếu như những người đứng tuổi.
  • Giai cấp xã hội và mực độ sinh sống: giai cấp trung lưu; công chức cao cấp hay nghề nghiệp tự do hay là thành phần thương gia; thợ thuyền; công chức hay tư chức hạng B; nông dân.
  • Địa thế của cư trú: xa hay gần chỗ bỏ phiếu: phương tiện giao thông.
B. YẾU TỐ THỜI CUỘC
Tùy theo lúc, công dân tham gia nhiều hay ít vào cuộc tuyển cử. Một cuộc tuyển cử để lập một chính thể mới, hay là sau một cuộc chính biến, một cuộc khủng hoảng chính trị chắc chắn sẽ có rất đông người tham gia.
C. YẾU TỐ LIÊN HỆ ĐẾN Ý NGHĨA TUYỂN CỬ
  • Tham gia nhiều về cuộc tuyển cử toàn quốc hơn là địa phương
  • Tuyển cử có tính cách chính trị hơn là nghề nghiệp
  • Tuyển cử kết quả biết trước.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

[i] Tức Việt Nam Cộng hòa (p&c)
[ii] Ngày 27-11-65 tại Sydney (Úc) một công dân Úc không chịu nộp phạt 1,5 Úc Kim về tội không bỏ phiếu, đã bị phạt 3 ngày tù. (NVB)
[iii] Tức Việt Nam Cộng hòa (p&c)