Friday, October 24, 2014

Mục đích chính của đấu tranh là gì?

Chúng ta phải làm gì (Kỳ 9)? Mục đích chính của đấu tranh là gì?

 
Đặng Chí Hùng - Bài viết này hoàn toàn không có “dạy đời” bất cứ ai nhưng chúng ta nên rút kinh nghiệm để công cuộc đấu tranh có hiệu quả hơn nữa. Nếu chúng ta sa vào những điều bên lề quá nhiều thì mục đích chính là lật đổ cộng sản trước khi cả nước ta là một tỉnh của Tàu sẽ bị lãng quên.
I. Đấu tranh với cộng sản không phải là hô khẩu hiệu
Hô khẩu hiệu là một biện pháp tinh thần hết sức hiệu quả trong việc động viên và khích lệ tinh thần đấu tranh của con người. Tuy nhiên hô khẩu hiệu như thế nào cho đúng lúc và đúng chỗ mới là vấn đề. Ngoài ra chúng ta đã từng chỉ trích cộng sản hô khẩu hiệu quá nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu thì chính chúng ta cũng phải rút kinh nghiệm điều này.
Thật ra thì ai chống cộng thực lòng cũng biết Hồ Chí Minh, cộng sản Việt Nam là những tội đồ của dân tộc. Ai cũng muốn chúng phải trả giá cho những tội ác của mình. Tuy nhiên nếu mà hô khẩu hiệu đại loại như: Đả đảo cộng sản, cộng sản chết đi v.v.. mà cộng sản sụp, Trung cộng chết thì toàn dân Việt Nam đã không có thảm cảnh ngày nay.
Vấn đề là chúng ta phải biết dùng những lời hô khẩu hiệu ở một trường hợp nào mà nó không gây sự nhàm chán cho người dân mà nó lại có tính cổ vũ tinh thần đoàn kết đấu tranh mới là vấn đề đang nói. Theo bản thân người viết, để đấu tranh tốt nhất, có hiệu quả đối với cộng sản thì chúng ta phải làm được một số điều như sau:
- Tự trang bị cho mình một nền tảng kiến thức về lịch sử, chính trị thật vững chắc như biết nguồn cơn tội ác của cộng sản từ đâu chứ không chỉ là bắt đầu từ Hùng – Dũng – Sang – Trọng... hiện nay. Có kiến thức nhất định rồi hãy bước ra công chúng bởi vì chính chúng ta là đầu tàu kích thích nhân dân. Chúng ta không thể mù mờ về kiến thức đấu tranh mà chỉ có vài ba câu hô khẩu hiệu đem ra mọi lúc, mọi nơi sẽ khiến người dân mất long tin.
- Chỉ nên dùng những câu khẩu hiệu khi có biểu tình hoặc hội họp cùng quần chúng nhân dân. Và phải chọn khẩu hiệu phù hợp cho từng giai đoạn, từng cuộc biểu tình.
- Mỗi chúng ta muốn làm một chiến sĩ thông tin thì phải tự trang bị cho mình một lượng thông tin chính xác và có ý nghĩa nhất để tránh xa đà vào những phát biểu chung chung không đem lại hiệu quả trong công việc.
- Mặc dù biết Hồ Chí Minh, cộng sản là tội đồ dân tộc. Tuy nhiên để người dân thấy được sự thật chúng ta khác biệt các "cháu ngoan bác Hồ" thì chúng ta nên bớt dùng những từ ngữ của thế hệ thanh niên làm theo lời bác để người dân thấy giá trị thật của dân chủ và tự do để đi theo. Buộc tội đanh thép trước những tội ác của cộng sản, của Hồ Chí Minh không có nghĩa là phải chửi bới.
 
Hãy làm những điều thực tế có ý nghĩa như họ
Đấu tranh với kẻ thù có súng, có côn an, có chó săn... thì việc tốt nhất là: hành động. Hành động không có nghĩa là phải dùng súng bắn chúng. Mỗi người có khả năng riêng, nhưng nhất thiết khi đã hành động phải làm được nhiều điều hơn là chỉ hô khẩu hiệu để rồi trở thành anh hùng trong khi chính chúng ta phải tự biết chúng ta chưa làm được gì cho tổ quốc cả. Tổ quốc, dân tộc cần chúng ta thực tế hơn là hô khẩu hiệu. Hãy học cách làm của những Bùi Hằng, Trần Thị Nga giúp dân oan một cách thực tế. Hay học cách đấu tranh của Nguyên Kha, Thiện Thành đã làm được một việc đầy ý nghĩa. Hoặc chúng ta hãy làm như anh Điếu Cày, Phạm Thanh Nghiên, Tạ Phong Tần, Đỗ Minh Hạnh v.v… có ý nghĩa hơn nhiều là chúng ta chỉ dừng lại ở việc hô khẩu hiệu.
II. Đừng đánh vào cái gối bông của cộng sản
Nói cho đúng tất cả việc dồn vào kêu gọi cho 1,2 cá nhân..., cho việc phản đối vài điều lẻ tẻ như 258, Nhân quyền hay kêu gọi sửa đổi sửa HP,... là một cái bẫy mà cộng sản giăng ra cho mọi người lao vào đó đấm mấy cái bị bông. Trong khi vấn đề chính là lật đổ cộng sản vì cái mốc 2020 đang đến gần mà mới đây là Viện Khổng Tử, Người Tầu khắp nơi... lại bị bỏ quên.
Hãy làm những việc cụ thể như “Chúng tôi muốn biết” đang làm vì đó là một cú đấm thẳng vào bộ mặt bán nước, có thể kích động được người dân đứng lên vì lòng tự hào dân tộc. Một lời thật có thể mất lòng nhiều người nhưng lúc này phải đặt mục tiêu: Lật đổ cộng sản lên hàng đầu của các vấn đề.
Bởi như tôi đã phân tích, tất cả những điều 258, nhân quyền, điều 4 hiến pháp cho đến nay quốc tế đều biết từ rất lâu khi mà cộng sản làm ra những điều đó. Chúng ta có thể đưa các kiến nghị phản đối nhưng đừng nên mất nhiều thời gian quá nhiều vào nó. Tại sao lại nói như vậy? Vì cộng sản không dùng những luật đó để đàn áp chúng ta. Cộng sản có thể dùng rất, rất nhiều lý do như trường hợp của anh Điếu Cày, luật sư Lê Quốc Quân mới đây là bằng chứng. Hơn thế nữa, chúng ta phải xác định rằng nếu thật sự quan tâm đến những vấn đề đó thì cộng đồng quốc tế đã lên án với những thứ luật vô lý đó của cộng sản từ rất, rất lâu rồi vì họ đều có những tiểu ban quan sát nhân quyền riêng cho từng quốc gia và hằng nằm đều có báo cáo theo dõi. Thực ra cộng sản rất vui khi biết chúng ta đang sa đà vào những cái bẫy do chúng đặt ra để đánh lạc hướng bán nước của chúng. Dư luận quốc tế về mấy điều đó? Đã là cộng sản thì không cần biết công pháp, công luận là gì cả. Chỉ cần lẻo mép với người ngoài, sắt máu với người dân là xong!.
Đây là mục tiêu chính: Lật đổ cộng sản (Hình: minh họa)
 
Nếu chúng ta dùng toàn tâm lực cho việc phản đối cộng sản vài điều đó thì chúng ta liệu có làm gì được khi mà người dân chẳng quan tâm đến những điều đó sau nhiều năm vô cảm với chính trị, với dân tộc. Chúng ta kêu gọi một xã hội dân sự để có thể đưa Việt Nam thoát khỏi ách cộng sản ư? Chúng ta có viển vông không khi phải mất vài chục năm để những nước có xuất phát từ nền tảng tư bản chủ nghĩa (Ở đó người dân có trình độ văn hóa, chính trị và kinh tế hơn xa hàng trăm năm với Việt Nam dưới ách cộng sản) tiến đến một xã hội dân sự thật sự. Trong khi cái mốc 2020 đã đến rất gần. Liệu lúc đó cái tên Việt Nam có còn hay không để xây dựng một xã hội dân sự? Hãy giành điều đó cho Việt Nam thực sự thoát khỏi cộng sản và Trung cộng. Lúc này là: Bằng mọi cách kêu gọi người dân vứt cộng, giải Hồ, bỏ Giáp thông qua sự tuyên truyền đại chúng và rỉ tai (Xem: Chúng ta phải làm gì? – kỳ 8). Tóm lại là chúng ta chỉ nên dùng 20% sức mạnh, thời gian và công sức cho những việc đó mà việc chính vẫn là: Lật đổ cộng sản. Các tổ chức xã hội dân sự nếu có hãy chú tâm vào tuyên truyền và đưa các vấn đề MẤT NƯỚC lên hàng đầu.
Người ta sẽ đặt ra câu hỏi là sẽ làm gì khi không có tấc sắt trong tay và chưa có một tổ chức nào để làm việc lật đổ cộng sản?. Cá nhân tôi xin trả lời 2 câu hỏi này như sau:
 
- Súng ở đâu ra? Anh Vươn lấy súng ở đâu? Anh Viết lấy súng ở đâu? Điều này cho thấy chế súng không phải là vấn đề quá khó khăn.
- Súng ở trong quân đội chứ đâu? Như tôi từng đề cập thì chúng ta phải dùng phương pháp rỉ tai để tách con em của dân trong quân đội ra khỏi lũ cộng sản bán nước hại dân. Các bạn nên nhớ: Quân đội là con em, bạn bè chúng ta mà ra, ngoài ra chỉ có đám sĩ quan mới có đặc quyền vơ vét còn đa số người lính thường không có những đặc lợi đó. Súng ở đó chứ đâu?
- Muốn có súng nữa? Phải có tổ chức đứng lên để ép cộng sản phải đối đầu trực diện. Lúc đó súng sẽ có cả từ bên ngoài. Và tổ chức đó là gì? Đó là một liên minh của các đảng phái tổ chức để lật đổ cộng sản thông qua một hình thức đấu tranh thống nhất (Xem: Chúng ta phải làm gì? – Kỳ 5).
- Nếu chúng ta không có một liên minh đối lập vững mạnh thì chẳng có một nước Mỹ, LHQ nào giúp chúng ta. Mỹ và LHQ v.v... chỉ “phù thịnh” chứ không “phù suy”. Do đó trước hết chúng ta muốn có


hậu thuẫn thậm chí cả vũ khí thì bản thân chúng ta phải đủ để quốc tế giúp đỡ. Hãy làm phép so sánh giữa Libia và Syria thì thấy. Libia nhanh chóng kết thúc chỉ vì Libia có lực lượng đối lập mạnh hơn hẳn Syria.
Dù thế nào chúng ta cũng phải luôn nhớ hai điều đó là: Cộng sản sẽ chết vì kinh tế và sự thật mà chúng vốn là những kẻ thù của sự thật. Đừng đi quá xa hai vấn đề chính dẫn đến sự cáo chung của cộng sản có thể khiến chúng ta phải ôm hận mãi mãi.
III. Hãy nắm lấy cơ hội
Cộng sản Việt Nam cần cái ghế nhân quyền 3 năm để làm một công đôi việc: Lừa đảo người dân trong và ngoài nước về vấn đề nhân quyền. Cái đích thứ hai đó là xin vào TPP để cứu vãn kinh tế đang sắp chết toàn diện. Đứng trước việc cộng sản đã ngồi vào ghế đó chúng ta cần phải thấy đó là những khó khăn và thuận lợi:
Nếu cộng sản Việt Nam vin vào việc “đã có nhân quyền” để đàn áp người đấu tranh thì chúng sẽ gặp nhiều bất lợi. Đó là người dân sẽ bị đàn áp nhiều hơn và khi đó, giống như những chiếc lò xo bị nén căng lại thì sức phản kháng càng cao và lúc đó hậu quả sẽ là khó lường với cộng sản. Đồng thời, những người đấu tranh trong và ngoài nước cũng dựa vào đó để tố cáo tới LHQ cũng như các tổ chức theo dõi nhân quyền độc lập để xem xét lại tư cách của cộng sản Việt Nam nhằm triệt hạ nút thắt kinh tế của cộng sản.
Nếu cộng sản Việt Nam đứng trước chiếc thòng lọng và miếng mồi TPP mà Mỹ đưa ra mà giảm bớt đàn áp người đấu tranh thì cũng là một thuận lợi cho chúng ta tuyên truyền về việc cộng sản bán nước, chống điều 4 Hiến Pháp và nhiều điều luật vô lý nữa để dẫn đến sự đồng loạt đấu tranh. Ngoài ra, thông qua con bài nhân quyền và mục tiêu là TPP thì Mỹ muốn người dân Trung cộng đứng lên phản kháng chế độ bạo quyền cộng sản Trung cộng. Điều đó cũng kéo theo việc ly khai Trung cộng ra khỏi Việt cộng sẽ có những bước tiến lớn mà chúng ta đang mong muốn để có dân chủ tự do.
Vì vậy việc tố cáo nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam là rất cần thiết. Lý do cần thiết là:
- Dựa vào việc rất nhiều tội phạm chiến tranh của Đức Quốc xã, Romania, Campuchia v.v... đã phải ra tòa. Và mới đây nhất là sự kiện tòa án Tây Ban Nha đưa vấn đề giết người hàng loạt của Lý Bằng, Giang Trạch Dân ra xét xử.
- Dựa vào việc Nhà cầm quyền cộng sản đã ngồi vào ghế nhân quyền LHQ. Đây là cơ hội chúng ta tố cáo cộng sản Việt Nam bắt cộng sản phải tuân theo phán quyết của tòa án.
- Đây là cơ hội cho toàn thể người dân Việt Nam, các hội đoàn thể hiện những việc làm cụ thể của mình thay vì chỉ dừng lại ở việc thành lập, chụp ảnh để xác lập tên tuổi cá nhân, hội đoàn trong khi những việc làm thực tế là tố cáo cộng sản Việt Nam lại bị bỏ quên.
- Đây cũng là cơ hội vừa tạo được việc tuyên truyền lòng dân trong nước đứng lên sau khi nhận ra bị lừa đảo mấy chục năm qua. Đồng thời sẽ có lý do vận động các quốc gia không viện trợ cho lãnh đạo cộng sản tham nhũng dẫn đến sụp đổ trong vết chân Asin của cộng sản Việt Nam – Vấn đề Kinh tế.
Nếu chúng ta làm tốt được điều đó kết hợp với việc không gửi tiền ngân hàng trong nước, không mua bán xa xỉ phẩm như xe hơi, điện thoại xịn… mà cộng sản đang thu thuế nặng từ những cái đó thì Việt Nam sẽ nhất định có tự do, dân chủ trong một ngày không xa. Đó là việc chúng ta cần phải cấp bách làm việc này với hai bước: Bước 1 là toàn dân tố cáo và bước 2, toàn dân đứng dậy lật đổ cộng sản Việt Nam.
IV. Kết luận
Ngày hôm nay, một thực tại đáng buồn là người ta có thể gửi về Việt Nam hàng triệu USD hàng năm, cũng có thể hăng say ký thỉnh nguyện thư van xin cộng sản cho phép điều này, điều nọ... Nhưng lại ít người quan tâm đến việc ký thỉnh nguyện thư để giải phóng cả một dân tộc. Tôi biết rằng sẽ có người cho rằng đây là sự cực đoan hay, nhưng tôi vẫn phải nói vì đó là một sự thật mà chúng ta cần phải nói thật với nhau để rút ra những bài học quý báu cho đấu tranh.
Bài viết này cũng chỉ làm một tham vấn của cá nhân người viết mong muốn cho chúng ta nên tìm ra những điểm nhấn trong đấu tranh. Trong bất cứ một vấn đề đấu tranh nào chúng ta dàn trải ra nhiều việc quá mức mà không có điểm nhấn thì chúng ta sẽ bị những cái bị bông của cộng sản đánh lừa mục tiêu cụ thể và chính yếu nhất. Và cần phải nắm lấy những cơ hội mà chúng ta đang có. Điều quan trọng nhất lúc này mà chúng ta phải làm lúc này là âm thầm xây dựng lực lượng để có thể chiến đấu lật đổ cộng sản. Chúng ta chỉ thành công khi chúng ta nhìn ra đâu là nút thắt có thể thắt cổ tiêu diệt con quỷ ác bá: Cộng sản Việt Nam.
***
Kính thưa bạn đọc!
Theo thông báo ban đầu loạt bài viết “Chúng ta phải làm gì?” sẽ có 15 kỳ, tuy nhiên tôi đã cố gắng lồng ghép 2,3 vấn đề liên quan đến nhau vào 1 bài viết nên loạt bài “Chúng ta phải làm gì?” rút ngắn còn 9 kỳ, và đây là kỳ cuối của loạt bài này. Mong muốn của tôi là thông qua loạt bài này có thể trình bày một số ý kiến về các việc làm cụ thể để gửi tới quý bạn đọc. Tất cả những điều cụ thể này đều mong muốn là lật đổ chế độ cộng sản bán nước hại dân hiện nay tại Việt Nam.
Quan trọng hơn cả chúng ta phải thấy một điều là chúng ta cần phải dứt khoát với cộng sản và áp dụng ngay những biến pháp thực tế mà chúng ta có thể làm để giúp dân tộc ta thoát khỏi nguy cơ rơi hoàn toàn vào tay Trung cộng đã đến gần. Nếu chúng ta bỏ đi những cái tôi cá nhân vô nghĩa để đánh vào những gót chân Asin của cộng sản thì chúng ta sẽ thành công. Và ngày đó là ngày mà chúng ta có thể chung tay vào xây dựng một Việt Nam tươi đẹp hơn và tự do, dân chủ mà chúng ta đang hằng ngày mong ước.
Viết xong : 05/12/2013
Chỉnh sửa và hoàn thiện : 15/10/2014
 
Đặng Chí Hùng
________________________________________
 
Bài đã đăng:
 

Câu chuyện về Gene Sharp và lý thuyết đấu tranh bất bạo động

Athena - Câu chuyện về Gene Sharp và lý thuyết đấu tranh bất bạo động

Athena, cộng tác viên Dân Luận
 
"Đây là một chiến lược đấu tranh. Nó thay thế cho chiến tranh và các hình thức bạo lực khác. Tôi nói đấu tranh bất bạo động là đấu tranh có vũ trang. Chỉ có điều loại đấu tranh này sử dụng các vũ khí tâm lý, vũ khí xã hội, vũ khí kinh tế và vũ khí chính trị. Và chính hình thức đấu tranh này cuối cùng lại có sức mạnh chống lại sự áp bức, bất công và độc tài mạnh mẽ hơn là đấu tranh bạo động" - Gene Sharp
"Tôi nghĩ [cuộc chiến tranh] Việt Nam đã thay đổi quan niệm của tôi về tầm quan trọng của chiến tranh bất bạo động, và đặc biệt là tầm quan trọng của việc đưa lý thuyết của Gene Sharp tới phần còn lại của thế giới. Bởi vì chúng ta cần phải có phương thức thay thế [cho chiến tranh]. Việt Nam thuyết phục tôi rằng chúng ta phải chấm dứt việc giết chóc con người." - Đại tá Robert "Bob" Helvey, cựu chiến binh Việt Nam, người đưa lý thuyết đấu tranh bất bạo động của Gene Sharp tới Miến Điện và Serbia.

Gene Sharp – Làm sao để khởi động một cuộc cách mạng” (Gene Sharp – How to Start A Revolution) là bộ phim tài liệu của đạo diễn người Scotland Ruaridh Arrow làm về chiến lược đấu tranh bất bạo động và người đàn ông đứng đằng sau lý thuyết này – giáo sư ngành khoa học chính trị Gene Sharp. Ông chính là tác giả của cuốn cẩm nang nổi tiếng “Từ độc tài đến dân chủ” (From Dictatorship to Democracy) bao gồm 198 thủ thuật đấu tranh bất bạo động. Đây là cuốn sách đã góp phần làm nên thành công của các cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài ở Miến Điện, Serbia, Ukraine, Ai Cập, Tunisia, Iran,… Năm 1983 ông lập ra viện Albert Eistein – một tổ chức phi lợi nhuận chuyên thúc đẩy sử dụng hình thức đấu tranh bất bạo động. Suốt nhiều năm, rất nhiều người dân sống dưới chế độ độc tài đã tìm đến đây mong nhận được sự giúp đỡ.
Từ vài chục năm về trước Gene Sharp nhận ra rằng các cuộc chiến tranh và giết chóc lẫn nhau là hoàn toàn không cần thiết và rất vô nghĩa. Nhận thức rõ điều này nên ông đã từ chối tham chiến cũng như cực lực phản đối thanh niên Hoa Kỳ nhập ngũ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Những việc làm đó đã khiến ông phải ngồi tù suốt chín tháng.
Vào một lần khi đang nghiên cứu tại trường đại học Oxford, Gene Sharp bất ngờ có một khoảnh khắc mà ông gọi là “khoảnh khắc Eureka” bởi vào lúc đó ông phát hiện ra rằng sức mạnh của chế độ độc tài đến từ “sự phục tùng, sự hợp tác, sự ủng hộ, sự giúp đỡ của chính người dân và các tổ chức trong xã hội. Và tất cả những gì bạn cần làm là giảm bớt sự hỗ trợ đó, đó là tính hợp pháp, sự hợp tác và phục tùng. Nếu bạn có thể cắt đứt nguồn nguyên liệu đó, thì chế độ sẽ sụp đổ.”

Bài học thứ nhất: Lập một chiến lược

Năm 1989, Gene Sharp đến thăm Trung Quốc vào đúng thời điểm cuộc biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn đang ở cao trào. Chính cuộc biểu tình này đã giúp ông có được cái nhìn thấu đáo hơn về cách thức chuẩn bị và tầm quan trọng của việc lập ra kế hoạch và chiến lược cho một cuộc đấu tranh. Dù sinh viên Trung Quốc xuống đường rất đông ở Bắc Kinh và nhiều thành phố khác, Gene Sharp nhận ra rằng họ không hề có bất cứ sự chuẩn bị nào, họ không có một kế hoạch cụ thể sẽ ở quảng trường bao lâu cũng như lúc nào nên rời đi. Họ hành động một cách ngẫu hứng từ đầu tới cuối, để rồi cuối cùng bị dập tắt trong biển máu. Thiên An Môn đáng lẽ đã có thể thành công, nhưng cuối cùng lại là một vết nhơ không thể xóa mờ trong lịch sử Trung Quốc nói chung và “lý lịch” của Đặng Tiểu Bình nói riêng.
"Ý tưởng cho rằng cứ ngẫu hứng xuống đường làm cách mạng là sẽ thành công là một ý tưởng điên rồ. Ngược lại, nếu bạn không biết mình định làm gì, thì nhiều khả năng bạn sẽ gặp rắc rồi lớn." Gene Sharp

Bài học thứ hai: Vượt qua sự "phân tử hóa"

Gene Sharp cho rằng việc lập kế hoạch là chưa đủ mà cần phải đoàn kết mọi người lại với nhau bởi từ trước đến nay chính quyền độc tài luôn tìm mọi cách cô lập từng cá nhân trong xã hội nhằm mục đích phân tách từng người ra với nhau để dễ bề điều khiển hơn. Lâu dần điều này khiến người dân sợ hãi lẫn nhau, sợ phải nói ra suy nghĩ của bản thân cũng như sợ hợp tác cùng nhau. Họ thậm chí không dám nói với hàng xóm, với người thân trong gia đình suy nghĩ thực sự của mình. Quá trình đó được gọi là sự "phân tử hóa". Đó là điều mà những người làm cách mạng phải vượt qua được trước khi tính đến những chuyện tiếp theo.

Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của Otpor là tạo ra một biểu tượng đấu tranh để thống nhất lòng người. Srđa Popović, lãnh đạo của phong trào Otpor nói: "Rõ ràng chúng tôi [những người không ưa Milosovic] chiếm đa số. Nếu chúng tôi có thể nhận biết được tất cả những người chống lại Milosovic, bằng cách đưa tay lên chào người khác bằng nắm đấm, thì ông ta sẽ bị đánh đổ trong vòng vài năm."

Bài học thứ ba: Xói mòn những cột chống của chế độ

Bob Helvey nói miêu tả: "Những trụ cột chống đỡ cho chính quyền tồn tại giống như những ngón tay của tôi đang đỡ cuốn sách này. Nếu tôi có thể tạo ra chiến lược để xói mòn các trụ cột này, ví dụ cảnh sát, quân đội, các tổ chức xã hội, tôn giáo v.v... thì khi chúng suy yếu và bắt đầu sụp đổ, thì chính quyền cũng sẽ sụp đổ theo. Lý tưởng nhất là những trụ cột đó KHÔNG BỊ PHÁ HỦY, mà chuyển sang hỗ trợ dân chủ."
cotchong.png

Muốn chuyển các trụ cột đó sang hỗ trợ dân chủ, cách mạng phải nhờ đến quần chúng nhân dân. Chế độ độc tài sống dựa vào quân đội, cảnh sát và các tổ chức tôn giáo. Nếu có thể cùng người dân thuyết phục những tổ chức trên đứng về phía người biểu tình thì đó là lúc chính quyền độc tài phải sụp đổ. Đừng quên rằng quân đội hay cảnh sát cũng từ nhân dân mà ra. Bản thân mỗi quân nhân hay nhân viên cảnh sát cũng đều có người thân và gia đình của họ. Chính vì vậy hãy từng bước khuyên nhủ lực lượng cảnh sát và quân đội gia nhập phong trào dân chủ.
"Chúng tôi nói với những cảnh sát là tất cả chúng ta đều là nạn nhân của hệ thống này. Không có lý do gì để có chiến tranh giữa các nạn nhận với nhau. Một bên là nạn nhân mặc áo quân phục màu xanh, bên kia là những nạn nhân mặc áo phông quần bò, nhưng không có lý do gì để hai bên phải xung đột. Và lời giải thích này đã thành công ở nhiều nơi trên thế giới. Bạn đi và kết nạp những trụ cột này vào phong trào của bạn. Bạn không ném đá vào cảnh sát!", Srđa Popović chia sẻ.

Bài học số 4: Khước từ bạo lực

Vì tính chất của hình thức đấu tranh là “bất bạo động” nên hãy tìm mọi cách nói không với bạo lực. Gene Sharp cho rằng nếu những người phản kháng chọn hình thức bạo động để đấu tranh thì vô hình chung họ đã tự đặt mình vào thế bất lợi hơn bởi chính quyền độc tài quá thừa vũ khí quân sự và đặc biệt là vũ khí sát thương để chống lại họ. Thật sự chính quyền độc tài luôn mong những người đối lập sử dụng vũ lực để có cớ dẹp loạn nhưng nếu họ đấu tranh ôn hòa thì mọi chuyện sẽ hoàn toàn khác.
Theo kinh nghiệm của Srdja Popovic – nhà lãnh đạo phong trào đối lập Optor ở Serbia thì "việc kiểm soát cuộc biểu tình lớn vài chục ngàn người là rất khó. Chỉ cần một thằng điên nhặt đá ném là báo chí sẽ chộp lấy và đưa lên thành sự kiện lớn. Và thông điệp này sẽ làm lung lay phong trào của bạn". Vậy nên trong các cuộc diễu hành họ luôn để “các cô gái, cựu chiến binh và người già đi lên hàng đầu và những người này luôn mang theo hoa, biểu ngữ cùng với những nụ cười để làm giảm nguy cơ tiến tới một cuộc bạo động”. Và trên thực tế, nhân dân Serbia đã thành công khi lật đổ được chế độ độc tài Slobodan Milosovic vào năm 2000.

Bài học số 5: Nhu thuật chính trị

Khi cuộc đấu tranh bất bạo động bị đàn áp, khi người dân bị chính quyền đánh đập hay tàn sát, thì nó tạo ra một tiến trình gọi là "nhu thuật chính trị". Trong đó, sức mạnh đàn áp của đối phương lại được dùng để làm suy yếu chính nó. Người đấu tranh càng tỏ ra ôn hòa, kẻ đàn áp càng tỏ ra bạo lực, thì sự ủng hộ dành cho người đấu tranh càng lớn lên, và sự bất tuân xã hội đối với kẻ đàn áp càng tăng.
10604655_10152836502918217_331262726834434337_o.jpg

Ảnh của Predrag Stakić

Vì thế người biểu tình cần phải nhắc nhở nhau thường xuyên: Không được trúng kế khiêu khích của kẻ đàn áp. Không được chống lại bằng vũ lực hay bày tỏ sự hận thù. Chỉ có sự cao thượng và nhân văn, chỉ có tình yêu mới đem lại chiến thắng trong cuộc đấu tranh kiểu mới này!

Lời kết

Trong suốt cuộc đời nghiên cứu về đấu tranh bất bạo động, Gene đã không ít lần phải hứng chịu các đòn tấn công tinh thần. Điển hình vào năm 2008 chính phủ Iran đã tuyên truyền một đoạn video cáo buộc ông làm việc cho CIA “có nhiệm vụ truyền bá tư tưởng của Mỹ đến các nước khác” nhưng Gene Sharp không hề từ bỏ việc nghiên cứu. Ông dành cả cuộc đời mình để tìm hiểu về tiềm năng và ý nghĩa của đấu tranh bất bạo động và cách làm suy yếu chế độ độc tài.
Ngay cả khi nhận được đề cử giải Nobel Hòa Bình vào năm 2009, Gene Sharp vẫn sống một cuộc sống rất bình dị trong căn nhà trồng hoa phong lan với tầng trệt là trụ sở văn phòng của viện Albert Eistein.
“Tôi nghĩ trong một thời gian dài, Gene Sharp sẽ trở thành cái tên quen thuộc. Sách của ông sẽ có mặt tại khắc các thư viện trên thế giới và được dịch ra nhiều thứ tiếng,” Jamila Raqib – trợ lý trung thành của Gene Sharp nói về người thầy và cũng là sếp của mình trong tập phim tài liệu đã giành giải “Phim tài liệu hay nhất” tại đại hội phim ảnh Boston vào năm 2011.
1497650_703894462998906_5580423764801936545_n.jpg

 

Monday, October 13, 2014

Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ

Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ

Posted: 26/09/2014
Kiều Phong
bai_truong_hop_vo_phien

Thu Tứ là bút hiệu của Đoàn Thế Phúc, con trai thứ nhà văn Võ Phiến. Anh được cha mẹ và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho đi du học từ nhỏ, trở thành một khoa học gia ở Mỹ. Anh là nhà văn có tài. Nhưng, như hầu hết sinh viên du học của miền Nam, Thu Tứ đền đáp lại cho miền đất đã nuôi dưỡng mình bằng một quả “thân Cộng” to đùng. Tháng 8 – 2014, cái tâm địa phản phúc, vô ơn, “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản” của Thu Tứ tràn ra đầu ngọn bút, trút lên chính thân phụ của anh. Thu Tứ viết một bài dài mạt sát nhà văn Võ Phiến về tội “chống Cộng”, “làm hại nước”. Sau đây là những lá thư tác giả viết cho Thu Tứ.
Cháu Thu Tứ,
Đây là những sai lầm trong bài: “Trường hợp Võ Phiến”:
1- Cháu lên án những người chống Cộng ở miền Nam là: rước ngoại bang Mỹ về để giữ cho đất nước tiếp tục bị chia đôi! và “nhà văn Võ Phiến đặt việc chống Cộng lên trên việc thống nhất đất nước.”
Không có dân miền nào ngu dại thích chuyện “đất nước bị chia đôi” đến độ hy sinh máu xương để giữ cái “chia đôi” cho bằng được. Quân dân miền Nam và bố cháu đặt việc chống Cộng lên trên hết là để bảo vệ vùng đất cuối cùng của Việt Nam nơi con người còn được sống như nguời, không lọt vào gông cùm của một loại chế độ bị cả loài người kinh tởm.

Tóm tắt vài chi tiết lịch sử mà vì đọc toàn sách báo Cộng sản, cháu không biết:

Kháng chiến chống Tây là việc của toàn dân. Đảng Cộng sản chỉ là một trong những đảng tham gia vào cuộc chiến đấu chung. Nhờ tổ chức giỏi, mưu mô xảo quyệt và tàn bạo – nhất là tàn bạo – vừa gặp cơ hội là đảng cướp chính quyền làm của riêng, đẩy các “đồng minh sát cánh chiến đấu” ra rìa. Rồi sợ họ bất mãn thì phiền, Đảng Cộng sản ra tay tiêu diệt các đảng khác. Việt Nam Quốc dân Đảng đóng góp cho kháng chiến 13 nguời liệt sĩ ở Yên Bái thành tích kháng chiến lẫy lừng, đảng viên cao cấp vẫn bị CS thủ tiêu, đảng viên cắc ké nhiều người bị giam cầm tới chết.
Thanh toán những đảng phái quốc gia cùng chiến đấu với mình vì sợ phải chia quyền lực cho họ, ta hiểu được. Nhưng bác Hồ còn thanh toán chính các đồng chí của mình, hung hãn không thua bác Staline, rồi thừa thắng xông lên, thanh toán luôn… nhân dân, Bác “cải cách ruộng đất” một phát long trời lở đất, biến những ngôi làng hiền hòa muôn thủa của dân tộc thành những pháp trường đẫm máu, rùng rợn chả kém gì làng quê của bác Mao, ông thầy dậy và bắt Bác phải giở trò man rợ này với chính đồng bào ruột thịt.
Mà khi đó, Bác mới làm vua nửa nước!
Trong bài, có chỗ cháu bào chữa cho Bác và Đảng là: bác Hồ đã sửa sai rồi! Chú cũng biết chuyện ấy, khi nghe bác Hồ hối hận, rơm rớm nước mắt, chú cũng mềm lòng, bùi ngùi cảm động.
Nhưng cảm thông với kẻ giết người hàng loạt xong biết tuyên bố sửa sai, thì ta cũng phải thông cảm với những người vì cái sai ấy mà chịu cảnh tang thương, nuôi lòng oán hận, và hàng triệu người sau khi chứng kiến cảnh đồng bào mình bị tàn sát, hoảng kinh co giò chạy thục mạng cho thật xa Bác và Đảng. Nếu Bác tiếp tục xông tới đòi chiếm luôn mảnh đất sống cuối cùng của họ thì nhất định họ phải chống cự. Bởi vì lúc đó họ không tiên đoán được là có lúc Bác hối hận. Mà biết thì cũng không ai ham làm nắm xương tàn trong mộ chờ ngày được Bác ban cho vài giọt lệ sửa sai lâm ly.
Mà đâu phải sau khi sửa sai, hối hận, Bác trở nên hiền như ma sơ. Tết Mậu Thân, có “thời cơ tốt”, Đảng Cộng sản quang vinh và Bác Hồ muôn vàn kính yêu ra tay chôn sống hàng ngàn đồng bào Huế tỉnh bơ. Rồi ở “một thời cơ tốt” khác, có đám đông đồng bào, đa số đàn bà con trẻ, khóc mếu bồng bế dắt díu nhau chạy loạn, các đồng chí dùng hỏa tiễn súng cối Nga Tầu phát cho, pháo kích chết la liệt hàng cây số trên đại lộ kinh hoàng. Khi không gặp thời cơ tốt, các đồng chí vẫn tạo ra thật nhiều “thời cơ hơi hơi tốt” bằng cách pháo kích đều đều vào thành phố, thịt xương con cháu đám Ngụy Dân lâu lâu lại tan nát, rải khắp sân trường.
Cháu có thể theo đúng kinh sách Cộng sản, lý luận rằng “cứu cánh biện minh cho phượng tiện” các đồng chí phải tàn sát không gớm tay để cứu nước, giúp cho những đứa may mắn sống sót được hưởng cuộc đời hạnh phúc phồn vinh trên thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Cháu tin thế là quyền của cháu, nhưng đừng đòi hỏi nhà văn Võ Phiến và những người văn minh, nhân bản ở miền Nam phải buông súng, dâng mảnh đất tự do cuối cùng cho bọn người cuồng tín, bất nhân, và hung bạo như thế, để “nước khỏi bị chia hai”.
Bố cháu theo kháng chiến, dạy học, giúp những cán bộ cao cấp mở mang kiến thức (nhờ vậy mà được một người học trò cứu mạng). Trông thấy đảng Cộng sản tàn ác, bất nhân quá, ông bất bình, can ngăn. Thế là bị tù, suýt bị tử hình.
Thoát gông cùm, về được miền tự do, ông đặt chuyện chống Cộng lên trên hết, coi đó là vấn đề sinh tử của mình, gia đình mình, và toàn dân trên phần quê hương chưa bị cộng sản cưỡng chiếm. Muốn ghép hai chuyện chống Cộng và “thống nhất đất nước” vào với nhau thì phải viết rõ: “Nhà văn Võ Phiến quyết tâm chống Cộng vì không muốn để miền Nam bị bọn Bắc Cộng chiếm nốt, đất nước bị thống nhất dưới một chế độ độc tài, sắt máu nhất trong lịch sử loài người.”
Cháu viết lửng lơ: “nhà văn Võ Phiến đặt việc chống Cộng lên trên việc thống nhất đất nước.”… rồi ngửa mặt nhìn trời, tuôn ra một tràng những lời trách than ảo não, bi ai, nghe kêu boong boong: “Tổ tiên ta bao nhiêu công phu, xương máu, qua bao nhiêu đời mới mở được chừng này đất, để bây giờ đất chia hai sao? Dân tộc Việt Nam mấy ngàn năm trải bao lượt thử thách vẫn là một để bây giờ thôi là một sao?” ngụ ý rằng bố cháu quên công ơn dựng nước của tổ tiên, coi trọng việc chống Cộng hơn việc vẹn toàn lãnh thổ, còn cháu thì yêu nước, biết ơn tổ tiên, biết đau lòng vì đất nước chia hai v.v…
Viết như thế là gian lận, kiêu căng và xấc láo.
Chú tin cháu là người ngay thật, không cố tình dùng chữ nghĩa để bày trò gian vặt, cốt thủ thắng trong tranh luận. Chú cũng không tin cháu kiêu căng đến độ nghĩ mình khôn ngoan, yêu nước, biết ơn tiền nhân hơn cả các bậc cha chú và hàng triệu người chống Cộng ở miền Nam. Cháu cũng không là người ngu.
Chỉ mù quáng hết thuốc chữa thôi!
Bây giờ, ta xét xem chọn lựa “chống Cộng” đúng hay sai.
Nhờ chọn “chống Cộng”, bố cháu có chỗ dung thân, tạo sự nghiệp văn chương lừng lẫy, nuôi dưỡng các cháu thành tài, riêng cháu được du học để trở thành khoa học gia. Nếu ở lại với CS, với tội danh “phản động” sợ rằng tính mạng cũng không giữ được, số phận các cháu, con cái của một “tên phản động” chắc cũng không khá.
Nhờ hàng triệu người miền Nam chọn lựa chống Cộng giống bố cháu, cố chiến đấu giữ cho “nước chia đôi’ hai thập niên mà người dân miền Nam có đời sống khác xa thiên đường xã hội chủ nghĩa miền Bắc như thế nào, chẳng lẽ cháu không biết.
Nếu thật không biết thì hãy nhìn kỹ vào đất nước Nam Hàn. Như bố cháu, như miền Nam Việt Nam, Nam Hàn cũng chọn lựa quyết liệt chống Cộng, giữ cho chuyện “đất nước chia đôi” kéo dài. Họ may mắn hơn ta, thành công. Nhờ thế giờ này thành một quốc gia giầu mạnh, văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ ngang với Nhật, và không bị cậu chủ tịch nhóc tì Kim Chính Vân lãnh đạo.
Nếu Việt Nam bây giờ còn chia đôi thì cháu và bộ máy tuyên truyền ở Hà nội tha hồ tưởng tượng ra cảnh một Việt Nam thống nhất được Bác và Đảng lãnh đạo cho lên phi thuyền, xuất phát từ đỉnh cao trí tuệ loài người, bay vù vù vượt xa Nam Hàn. Nhưng nước ta thống nhất bốn thập niên rồi, Việt Nam tiến tới đâu, khác nam Hàn ra sao, người khiếm thị cũng thấy. Mới đây, trên báo Tuổi Trẻ ở trong nước, tác giả Nguyễn Hoa Lư trong bài “Ngậm ngùi rơi lệ” có đoạn rất hay nói sơ sơ về sự “khác biệt” giữa hai quốc gia:
“Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh: “Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.
VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương cách đây bốn, năm mươi năm, nghĩa là vào thời điểm chưa “bị” thống nhất, Việt (miền Nam thôi, các đồng chí đừng có nhận vơ!) chẳng kém Hàn. Thế mà giờ đây…
Nhà văn Võ Phiến, miền Nam VN, Nam Hàn chọn chống Cộng mà nhân loại hôm nay cũng chọn lựa giống hệt như thế.
Do đó, chủ nghĩa Cộng sản đã từng chinh phục một nửa thế giới bây giờ co cụm lại còn sót có bốn mống. Trong bốn mống đó thì Trung Cộng đã thành tư bản Đỏ, chỉ còn xứng danh Cộng sản dỏm. Cộng sản Việt Nam thì đang chạy theo hai con voi Tư bản xanh và Tư bản đỏ để hít bã mía cho đỡ đói, chả thấy còn giống con Giáp Cộng sản nào. Gia tài Cộng sản còn rơi rớt lại, nguyên con, không sứt mẻ là hệ thống công an cảnh sát đàn áp, hành hạ đối lập và bắt nạt, áp bức dân lành.
Và chính trên quê hương, nơi lý thuyết chủ nghĩa Cộng sản chào đời, dân tộc Nga cũng chọn lựa giống hệt nhân loại. Họ đem cái chủ nghĩa đáng ghê tởm ấy cùng những tượng lớn bé của các đấng sinh thành ra nó vứt hết vào bãi rác.
Bây giờ mà chống Cộng hăng quá thì có thể… sai thật. Vì mang tiếng tàn nhẫn, đánh đập những kẻ đã hấp hối, đang ngáp ngáp!
Về chuyện “thống nhất đất nước” thì nhà văn Võ Phiến, như hàng triệu người ở miền Nam, ở Nam Hàn có khi nào ngưng thiết tha mong ước ngày đất nước thôi bị chia hai đâu! Nhưng trái với đảng Cộng sản và cháu, họ chỉ muốn Việt Nam được thống nhất như Đông Tây Đức, nghĩa là chế độ Cộng sản Đức hết chỗ dung thân, dân Đông Đức từ nay không phải tìm tự do bằng cách vượt ngục, rồi bị lính Đức Cộng bắn chết gục dưới chân tường Bá Linh. Toàn dân Đông Đức được chung hưởng phúc lợi và niềm hãnh diện của những công dân một nước Đức tự do, văn minh, giầu mạnh.
Mơ ước không thành, nhưng chọn lựa “chống Cộng” thì thật đúng, theo phán quyết của chính quan tòa lịch sử nhân loại.
2 – Đoạn văn sau đây khiến người đọc, nhất là những người từng đọc Thu Tứ, bàng hoàng:
“Cách nhìn là quan trọng nhất. Nhưng nhìn đâu cũng có đóng góp vào cái thấy của người nhìn.
Có thể đặt vấn đề, hay là quê hương nhỏ của nhà văn Võ Phiến là huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định nó đã “ngoại lệ” khiến ông đâm ra dễ nghĩ lệch về chuyện đất nước? Quả thực, ở Phù Mỹ thời Pháp thuộc gần như không thấy bóng giặc Pháp mà chênh lệch giàu nghèo cũng không đáng kể.”

Người đọc kinh ngạc sững sờ, không thể ngờ một cây bút luôn có những suy tư chín chắn, sâu sắc lại viết ra những lý luận, nhận định ngây ngô, nhảm nhí đến thế.
Ở đây, cháu mô tả Võ Phiến giống hệt một ông nông dân mù chữ, không biết viết, biết đọc, và suốt đời – suốt đời – quẩn quanh ở huyện Phù Mỹ nên không biết Tây nó ác, xã hội Việt Nam ngoài huyện Phù Mỹ có chênh lệch, bất công, có khi còn chả biết mặt mũi thằng Tây thế nào vì “ Phù Mỹ gần như không thấy bóng giặc Pháp” … thành ra ông nhà văn mù chữ quanh quẩn ở huyện Phù Mỹ nghĩ chuyện đất nước lệch lạc hết trơn!
Nào, bây giờ theo đúng cách lập luận của cháu, chú viết thế này: “Thủa nhỏ Thu Tứ sống ở Sài gòn, rồi đi du học, quanh quẩn ở Úc ở Mỹ nên không biết chế độ Cộng sản tác hại cho dân tộc đến thế nào, nên dễ nghĩ lệch về Bác và Đảng”.
Chắc chắn cháu sẽ “phản biện” nhận xét hồ đồ, ngây ngô này ngay: “Tôi biết tường tận chuyện đất nước quê hương chớ, nhờ đọc sách báo”
Cháu đọc để biết thiên hạ sự thì cũng phải để ông nhà văn không mù chữ Võ Phiến đọc để biết những chuyện xảy ra khắp trên quê hương của ông chứ!
Nói chuyện đọc, chắc cháu đọc không nhiều bằng bố. Chú lại nghi cháu tập trung đọc toàn những sách ca ngợi, tâng bốc Cộng sản. Thành ra bắt chước cháu, chú cũng: “Có thể đặt vấn đề, hay là kho sách nhỏ của Thu Tứ chỉ toàn một giống tác phẩm tuyên truyền, ngợi ca Bác Đảng, khiến Thu Tứ đâm ra dễ nghĩ lệch về chuyện đất nước?”
Áp dụng suy luận này vào trường hợp cháu, nghe lại có vẻ rất… chí lý!
Kết luận Võ Phiến chỉ là một người mù chữ, vốn hiểu biết nghèo nàn gồm một mớ chuyện mắt thấy tai nghe quanh quẩn trong phạm vi huyện Phù Mỹ xong, cháu lên tiếng mắng mỏ, chê trách ông:
“Nhưng ngay ở Phù Mỹ, chắc chắn cũng đã có rất nhiều người yêu nước, chẳng qua nhà văn không chú ý đến họ”. (Ông nhà văn này đáng trách thật, có mớ kiến thức cỏn con lượm lặt ở huyện Phù Mỹ mà lại còn bỏ sót một kiến thức quan trọng như thế!)
Mắng mỏ chê trách xong là đến màn dậy dỗ thân phụ:
“Hơn nữa, dù chỉ nhìn tình hình Phù Mỹ mà thôi khó thấy được đại cục nước Việt Nam, thì thiết tưởng một người lên tiếng về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng, nhìn khắp cả nước, chứ đâu được nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình hình ở chỉ địa phương mình!”
Ngoài kiến thức do đọc, ông Võ còn vốn sống. Tham gia kháng chiến, sống và làm việc với Cộng sản, ở tù, bị xử truớc tòa án nhân dân… rồi sau đó là hai thập niên đối đầu với Cộng sản hàng ngày, bắt buộc phải tìm hiểu chiến thuật, chiến lược của địch, phải theo dõi sát nút tình hình thế giới để biết chuyện gì sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia. Còn Thu Tứ vốn đọc hạn hẹp, vốn sống thì chỉ có mấy chuyến về thăm quê hương theo kiểu Tây ba lô! Vậy mà con nguời vốn đọc nghèo nàn, hẹp hòi, vốn sống là con số không to tướng lại lên mặt dậy dỗ chủ nhân một kho tàng kiến thức mênh mông! Lại vu cáo cho ông là: … nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình hình ở chỉ địa phương mình!”
Sao cháu có thể u mê đến độ dám viết ra những lời quàng xiên, ngớ ngẩn, hỗn xược đến thế?
Đoạn văn ấy không làm giảm uy danh nhà văn Võ Phiến để “phục vụ tốt” cho Bác Đảng đâu, mà chỉ biểu lộ tác phong, nhân cách của chính tác giả: kiêu căng, xấc láo và ngu muội đến mức không ngờ.
Trong bài, có đoạn cháu khoe đã về Việt Nam du lịch nhiều lần, tìm mãi không thấy “cái ảnh hưởng cực xấu của chủ nghĩa cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam,”. Chuyện ấy bàn sau, bây giờ hãy nói đến ảnh hưởng cực xấu của những tác phẩm do cơ quan tuyên truyền của Cộng sản sáng tác.
Những cuốn sách đã mốc meo, chính những người Cộng sản hiếm hoi cuối cùng còn sót lại cũng chán lè, không thèm đọc, vẫn thu hút được một nhà văn thông minh có tài, đang sống trên đất tự do. Thu hút và thôi miên, biến anh ta thành một con người ngây ngô, ngớ ngẩn, khả năng xét đoán đúng sai bị tê liệt, rồi tự biến mình thành một cán bộ tuyên truyền hạng bét.
Tệ hơn nữa, ngoài công tác tuyên truyền, tâng bốc, bào chữa cho một chủ nghĩa đã bị nhân loại ghê tởm, anh ta còn lợi dụng cơ hội được làm con nhà văn Võ Phiến để ở ngay trong nhà rình rập những lời nói “phản động”, moi móc các sáng tác của ông, kiếm tìm những câu văn chê Bác Đảng để viết báo cáo trình công an, xúi chúng nó cấm in sách của thân phụ mình.
Cháu luôn luôn tỏ ra tha thiết muốn bảo tồn văn minh, văn hóa Việt Nam. Hầu như bài viết nào cũng toát ra tấm lòng thiết tha đẹp đẽ ấy.
Nhưng cháu đang nỗ lực bảo tồn một nền văn hóa, văn minh Cộng sản mới đẻ ra từ thời “cải cách ruộng đất”, thứ văn minh “ đấu cha, tố mẹ” đã từng làm một con người khắc nghiệt, tàn nhẫn như Hồ Chí Minh phải ân hận, rơi lệ.
3- Những sai lầm văn chương, lý luận, suy diễn trong bài viết của cháu còn nhiều, chú bận quá, lại không hứng thú gì khi phải ngồi đọc đi đọc lại một bài mạt sát Võ Phiến ngây ngô, non nớt, thua xa văn chương của đám bồi bút tác giả cuốn: “Những tên biệt kích văn nghệ”, ấn hành ngay sau 75.
Hơn nữa, sau khi đọc phần1và 2, được chỉ dậy cho những sai lầm có thể làm một tác giả sáng suốt giật mình tỉnh ngộ, cháu vẫn nhất định ôm khư khư cái quái thai văn chương ấy… có giảng giải thêm cũng chẳng ích gì.
Vậy tạm gác cái sai văn chương, xét qua cái sai trong hành động.
Hành động lâu nay, được cháu tả rất rõ:
“Số là, trong hai năm qua, do nhà nước Việt Nam nới lỏng qui định về xuất bản, nhà xuất bản Nhã Nam ở Hà Nội có in lại hai tác phẩm của nhà văn Võ Phiến là Quê hương tôi và Tạp văn. Cả hai tác phẩm này đều do chúng tôi chọn lựa và biên tập, theo sự ủy quyền từ lâu của thân phụ. Chúng tôi cố chọn những tác phẩm vửa giá trị nhất vừa hoặc không chứa hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc mà không gây hại cho nước. Chúng tôi đã tưởng mình thế là chu đáo với nhà với nước!”
Trước hết, chú tin cháu không cố tình gian lận, lươn lẹo trong việc sử dụng từ ngữ, nhưng cháu dùng toàn những từ gian lận Cộng sản cung cấp: “Người yêu nước” thay cho “ Người Cộng sản” “tổ quốc, nước” thay cho “Bác và đảng Cộng sản”, “nội dung chính trị” thay cho “nội dung chống Cộng”.
Dùng từ ngữ một cách ngay thẳng, có thể tóm tắt sinh hoạt của Thu Tứ như sau: Được cha già ủy quyền quản thủ gia tài văn chương của ông, Thu Tứ tự biến mình thành công an văn hóa, ngồi chọn lựa tác phẩm không chứa nội dung chống Cộng, nếu có tí chống Cộng nào thì kiểm duyệt, cắt bỏ ngay, rồi mới cho phổ biến. Và Thu Tứ tin mình làm thế là chu dáo với nhà và với (Đảng Cộng sản đang cai trị cả) nước.
Sinh hoạt trước đây là thế, sinh hoạt mới nhất, sôi nổi nhất thể hiện trong bài này là hô hoán báo động về cái hại trong văn chương Võ Phiến để nhà nước Cộng sản kịp thời có biện pháp đối phó. Thành tích đi báo Công an đó được nêu ra ngay từ đoạn mở bài:
“Chúng tôi vô cùng bất đắc dĩ mới lên tiếng
Chẳng ai muốn đi chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình! Chúng tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số người đọc hoang mang, hại đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình phản bác nội dung này.”
Nghĩa là Võ Phiến được độc giả trong nước chào mừng, nhiều nhà xuất bản tư nhân (phi chính phủ!) muốn ấn hành các tác phẩm khác, có thể mang nội dung chống Cộng mà Thu Tứ đã loại bỏ, hoặc chưa kiểm duyệt. Thành ra anh công an văn hóa tình nguyện này phải gào lên kể tội chống Cộng của bố, để cứu đảng và nhà nước ta khỏi bị quân phản động hãm hại.
Nhiều lúc chú băn khoăn: hay là có biến cố gì làm cháu bị chấn động, hoang mang, rồi nẩy sinh những ý nghĩ, hành động bất thường? Nhưng hiện tại, trước mắt, thấy một người, dù điên hay tỉnh, đang cầm vũ khí, hoặc dao, hoặc bút, đâm chém loạn xạ, kể cả người đẻ ra mình, miệng gào thét kết tội các vị ấy “làm hại nước” v.v… thì cần có biện pháp đối phó ngay. Nguyên cớ tìm hiểu sau.
Bài viết của cháu không thuyết phục được ai, như con dao cùn, người bị đâm không thấy đau, chỉ tức cười. Nhưng vị thế hiện nay của cháu – con trai nhà văn Võ Phiến, được ủy quyền quản thủ gia tài văn chương – cho phép cháu tha hồ phá hoại. Thành tích đã có rồi: kiểm duyệt hết những bài, những đoạn văn chống Cộng của nhà văn Võ Phiến để lập công với Đảng và nhà nước.
Do đó, qua điện thoại, chú đã yêu cầu mẹ cháu giúp bố làm thủ tục truất quyền “thừa hưởng và quản thủ tài sản văn chươngVõ Phiến” của cháu.
Nếu vì thương con, bà không chịu làm việc ấy, chú sẽ đoạn giao.
Dù rất thương kính ông bà, chú không thể ngồi yên chứng kiến cảnh một tên công an văn hóa được ông bà dung dưỡng, che chở, tiếp tục tàn phá, hủy diệt những di sản tinh thần quý giá của dân tộc.
(Còn tiếp)
Kiều Phong
Trên blog Ba Sàm, dưới tựa đề Con trai nhà văn Võ Phiến “đấu tố” cha?, quý vị có thể đọc bài Trường hợp Võ Phiến kỳ 1 trích đăng lại từ báo Văn Nghệ số 320. (Thư viện Sáng Tạo)

Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ (2)

Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ (2)

Posted: 03/10/2014
Kiều Phong
Mời đọc: Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ (1)
bai_truong_hop_vo_phien
4) Trong phần “Tại sao chúng tôi trở nên bất đồng” cháu khoe đã mở cuộc điều tra về tình cảnh đồng bào sống dưới chế độ Cộng Sản, và kết luận: không thấy chuyện gì chứng tỏ chủ nghĩa Cộng sản ảnh hưởng cực xấu vào văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.
Nào, để xem thám tử Thu Tứ đi truy tầm “cái ảnh hưởng cực xấu” ra sao.
Cháu kể: Chúng tôi về nước rất nhiều lần, mỗi lần rất lâu, thăm thân rất ít, coi như toàn bộ thời gian ở trong nước dành cho việc đi tham quan, chủ yếu miền Bắc. Chúng tôi không ở khách sạn sang trọng, không đi tua, mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xe xích-lô, có lần mua xe đạp đạp dạo quanh vùng ngoại ô Hà Nội kia thường xuyên đến nỗi có người ngồi chợ tưởng nhầm là dân buôn! (Chúng tôi vẫn có lối du lịch “bụi” như vậy từ trước chứ không phải đến khi về nước mới thế.)

“Không ở khách sạn sang trọng, không đi tua, mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xe xích-lô v.v…” kể lể hơi dài dòng, cứ nói gọn: du lịch kiểu Tây Ba Lô, bà con hiểu liền. Cháu còn hơn Tây Ba Lô một bậc, biết mua xe đạp, đạp vòng vòng, khiến giữa nơi chợ búa đông đúc như thế mà có tới một đứa mắt mũi kèm nhèm tưởng nhầm là dân buôn. Ngụy trang khéo léo kín đáo cỡ đó là nhất rồi, James Bond Thu Tứ tha hồ điều tra sâu rộng mà không lộ tung tích.

Sau khi mở cuộc điều tra ở miền Bắc thì “thấy người Việt Nam ngoài Bắc vui vẻ, bình thản, vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong cách “cách mạng”, mọi người bình đẳng, cũng rất hay.”
Cháu không nói đã gặp mấy chục, mấy trăm người Bắc?
Mà tại sao lại “mọi người bình đẳng, cũng rất hay?”. Văn quá bí hiểm, ý tứ không rõ. Dân bình đẳng với dân là chuyện thường, có gì đáng nói? Dân đen mà được bình đẳng với ông công an phường mới quý hóa, mới rất hay chứ?
Điều tra sâu rộng chỉ ở miền Bắc, quan sát tính tình, sinh hoạt của tối đa là vài trăm người dân xong, Thu Tứ lập tức dõng dạc kết luận: “Đâu là cái ảnh hưởng cực xấu của chủ nghĩa Cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam!…”
Dựa vào sự quan sát một vùng đất, một nhóm người, để đưa ra kết luận về toàn thể gần một trăm triệu dân, một đất nước trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu… cháu có thấy mình quá vội vàng không?
Sự vội vàng ấy, chính cháu đã lên án gay gắt ở một đoạn khác. Cháu chỉ trích tất cả những người chống Cộng là dựa vào một số hiện tượng tiêu cực để chê Cộng Sản xấu, ngụ ý họ bất công, xuyên tạc vì thiên kiến, nhìn cục bộ suy ra đại thể. (Cháu cũng lớn tiếng dậy dỗ thân phụ: “thiết tưởng một người lên tiếng về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng, nhìn khắp cả nước…”. Quên rồi sao!)
Thế những đứa không nhìn khắp cả nước, chỉ dựa vào vài ba chuyện tích cực ở mấy địa phương nhỏ để hít hà, tâng bốc rằng chủ nghĩa Cộng sản trên toàn quốc hay lắm, đẹp lắm thì sao?
Câu này mới ngộ nghĩnh: “Bấy giờ miền Bắc cũng như cả nước, đang có một số hiện tượng xã hội tiêu cực do kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn, nhưng nhìn chung người tuy nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện.”
Ấy, chỗ này phải từ từ, không nói liến thoắng để lấp liếm được. Cho chú ngắt lời cháu, nêu tí thắc mắc: Đứa nào làm cho kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn? Lúc đó là 1991, 16 năm sau “thống nhất đất nước” rồi, tàn dư Mỹ Ngụy không thể sống dai đến thế.
Lãnh đạo bất tài, làm kinh tế trì trệ, chủ nghĩa Cộng Sản tạo ảnh hưởng vào bát cơm, manh áo, cuộc sống của người dân, làm nẩy sinh thứ văn minh, văn hóa mánh mung, vật lộn, tranh sống khốc liệt, hiện ra lù lù trên nét mặt lo âu, trong sinh hoạt ngược xuôi, tất tả hàng ngày của những con người Việt Nam đói khổ, cùng quẫn… Thế là “cực xấu” hay chỉ hơi hơi xấu thôi?
Lại còn: “nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện”.
Những món văn hóa tinh thần (?) nào mà hay ho thế? Sao không kể ra cho độc giả nhờ. Một câu văn với những từ ngữ hoa hòe hoa sói nhưng mơ hồ không thực chất, không cơ sở, làm bà con nghĩ bể đầu chả hiểu tác giả định ngợi ca, tâng bốc cái gì! Lần sau, nên theo cách nói giản dị của tiền nhân, thí dụ như: “nghèo đói mà sạch sẽ, rách rưới mà thơm tho.” Đã có chữ là có nghĩa, ai cũng hiểu liền. Khỏi bị ngờ là bí quá, không biết khen cái gì cụ thể, đành “văn hóa tinh thần” một phát, cho nó kêu boong boong. Nó rỗng tuếch mặc xác nó!
Viết một đoạn văn ca tụng tài cai trị dân của Đảng loe ngoe có mấy dòng mà chỗ thì vô tình tố cáo Đảng bất tài, bất lực, chỗ thì ấp úng như âm thanh không thoát ra được từ cái miệng đầy bột của một con chó vừa ăn vụng. Thê thảm!
Đừng buồn, lỗi không phải ở cháu. Cháu rất thông minh, nghệ thuật nâng bi cũng khá rồi đấy, nhưng thất bại vì lỗi ở… mấy hòn bi.
Chúng nó nặng quá, khó nâng quá!
Nâng bi Cộng sản bây giờ là một công tác cực kỳ khó khăn, gian khổ, một loại mission impossible. Đội ngũ bồi bút của Đảng, tài nghệ siêu quần bạt chúng, kinh nghiệm đầy mình, cả đời nỗ lực nâng đến nỗi lưng còng xuống, rồi gẫy gập, khiến việc di chuyển khó khăn, phải dùng thêm cả hai tay… mà giờ này cũng ê càng hết rồi. Cháu đừng dại dột tranh nghề của họ.
“Người Việt Nam ngoài Bắc … bình thản” Lại mơ hồ, bình thản theo kiểu gì, trong hoàn cảnh nào? Bình tĩnh trước nghịch cảnh? Thản nhiên trước những đau thương của đồng loại? Hay chỉ là bình thản khi gặp một Việt Kiều?
Nếu cái “bình thản” thứ ba đúng thì chú đồng ý hoàn toàn. Năm 1991 phong trào du lịch Việt Nam chưa rầm rộ, đồng bào chưa biết vồn vã, tưng bừng chào mừng du khách. Bây giờ khác rồi, nhiều đồng bào ta gặp du khách mừng như bắt được đô la.
Muốn tìm lại những nét mặt bình thản thân thương thủa nào, cháu chỉ có cách tiếp tục làm Tây Ba lô vừa nghèo, vừa kẹo. Bớt tưng bừng tíu tít ngay, bình thản ra rít, có khi còn tiu nghỉu nữa.
“vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong cách “cách mạng”.
Câu khen người Bắc này khiến chú cảm động, và hãnh diện, vì mình dân Bắc kỳ. Mặc dầu là Bắc kỳ Chín nút (54= 5 + 4 = Chín nút – theo cách nói hiện nay của đồng bào miền Nam), nghe ai khen Bắc kỳ Hai nút (75= 7 + 5 = Hai nút ) cũng phổng mũi. Nhất là được khen có “phong cách Cách mạng”, vừa đẹp vừa hùng.
Đó là nhóm từ ngữ cao quý dành cho những con người bất khuất, sẵn sàng vùng lên chống lại cường quyền, dẹp bất công xã hội, thay đổi thế giới, làm nó đẹp hơn. Dân Bắc kỳ không di cư, ai cũng có cái phong cách, cái tinh thần cao quý ấy, Thu Tứ đã nức nở khen như thế.
Vừa cảm động vừa hãnh diện, chú nghĩ tới những bà mẹ liệt sĩ, những người xứng đáng nhất với lời ca ngợi của cháu.
Các bà mẹ Gio Linh, mang nặng đẻ đau sinh ra những chiến sĩ can trường, tất nhiên trong tim đã luân lưu dòng máu anh hùng, những mầm “phong cách cách mạng.” Khi con thành liệt sĩ, để lại cho mẹ lũ cháu mồ côi, tất nhiên mẹ lại tất tả ngược xuôi bán buôn nuôi lũ cháu, đã cách mạng lại còn rất kiên cường.
Các bà thường có những gánh quà rong, thơm ngào ngạt những món quốc hồn quốc túy. Những món quà do mẹ nấu đã từng đi vào văn học sử. Đám du khách nặng lòng với quê hương như cháu đã từng viết hàng trăm, hàng ngàn bài tùy bút ngợi ca từng cọng rau, sợi bún, miếng cá, con cua v.v…
Thế mà cái vỉa hè thơm lừng, tràn ngập hương vị quê hương, thắm đượm tình tự dân tộc ấy thỉnh thoảng, trong chớp mắt, bị náo loạn, teng beng vì bóng của một chú Công an.
Tin lời ngợi ca của cháu, độc giả sẽ hình dung một cảnh tượng hào hùng: bà mẹ liệt sĩ, đúng phong cách cách mạng truyền thống, hiên ngang đứng lên, giơ cao đòn gánh, sẵn sàng nghênh chiến, đánh đuổi thằng phá thối. Và khách hàng của mẹ, cũng phong cách Cách mạng cùng mình, chắc chắn có người lập tức xăn tay áo trợ chiến, bênh vực mẹ chống kẻ ác!
Nhưng “ôi chỉ là giấc mơ thôi”, giống hệt những người nghèo khổ bán quà rong, bà mẹ liệt sĩ cũng đành vắt giò lên cổ chạy tóe khói. Nhiều khi cuống quýt gánh gồng xiêu đổ, bát đĩa rơi vỡ, guốc dép và phong cách cách mạng văng hết ra đường, mỗi cái mỗi nơi! Tội nghiệp vô cùng!
Quen thói đùa cợt, mô tả thảm cảnh của các bà mẹ liệt sĩ bằng văn chương chữ nghĩa thiếu nghiêm trang , khiến có độc giả tuy ứa lệ mà vẫn phì cười, chú thấy mình thật cũng không phải.
Nhưng so với những đứa vừa phát bằng khen cho mẹ, vừa sai công an tịch thu cơ nghiệp, nguồn sống của cả bà lẫn cháu, hay những đứa về thăm quê hương, có mắt như mù, trút lên đầu mẹ những danh từ hào nhoáng, đao to búa lớn, xát muối vào vết thương trong tim mẹ, làm mẹ thêm đau đớn, nhục nhã, tủi thân… thì tội của chú chẳng có kí lô nào.
Độc ác, tàn nhẫn do cố tình, hay vì ngu dốt, ngớ ngẩn, tội ấy mới to. Kết quả như nhau, cùng dẫn tới những hành vi bất nhân, bất nghĩa.
Với đồng bào, với đồng loại.
Kiều Phong

Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ (3)

Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ (3)

Posted: 13/10/2014  
Kiều Phong
bai_truong_hop_vo_phien

Mời đọc: Những sai lầm trong bài “Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ (1), (2)
Đi tìm hiểu về sự hà khắc của một chế độ mà không bén mảng tới những cơ quan, bộ phận của guồng máy đang đè đầu, bóp cổ dân, không “tham quan” nơi dân bị nhà nước cưỡng chiếm đất đai, nhà cửa ruộng vườn… mà lại cứ đạp xe vòng vòng nơi chợ búa, đè lũ dân đen ra nghiên cứu, xét nghiệm… cuộc điều tra của cháu khôi hài!
Hãy tưởng tượng: một ông thanh tra của Liên Hiệp Quốc được phái đi điều tra tình trạng hành hạ tù nhân trong trại cải tạo, và ông ta “tác nghiệp” giống hệt Thu Tứ.
Ông ta không thăm viếng phòng “làm việc” vào giờ cao điểm của đấm đá, không tham quan hầm biệt giam để thấy những thân người dở sống dở chết, ngay cả nơi tù nhân lao động nhọc nhằn, với cái bụng lép kẹp, cũng bỏ qua luôn…
Rồi ngài thanh tra kết luận: “Tù nhân khi buồn, khi vui, thậm chí có lúc còn cười toe toét. Ở tù lâu cũng quen, nghe cán bộ quản giáo bốc phét hay chửi mắng, sỉ nhục, nét mặt vẫn bình thản. Vì nghĩ cùng chung thân phận tù, sĩ quan Ngụy quên hết cấp bậc, đối xử với nhau bình đẳng, cũng rất hay v.v… Không thấy bằng cớ tù nhân bị hành hạ”!

Không điều tra tội ác đã hoặc đang xảy ra, không tìm hiểu tính tình, tác phong, hành động, thói quen độc ác của cai tù mà nhất định chỉ nghiên cứu tính tình, tâm trạng tù nhân… nếu ngừng lại ở đó, cuộc điều tra hài hước, tiếu lâm này chỉ phản ảnh sự thiếu khả năng, kém thông minh của viên thanh tra.

Nhưng nếu anh ta thêm vào bản báo cáo một câu đại khái thế này: “Tù nhân đã thấm nhuần chủ nghĩa Cộng Sản, đã một lòng trung với Đảng, hiếu với Bác Hồ…” thì anh ta bịa chuyện để nói tốt cho bọn cai tù, nêu cao một thành tích “cải tạo thành công” chúng không hề có.
Anh thanh tra, ngoài bất tài, bất lực, thêm tội bất lương.
Bản tường trình của cháu cũng có sự thêm thắt không lương thiện kiểu ấy: cái món “phong cách cách mạng.”
Món ấy, nếu có, ít nhất cũng thể hiện trong hai tập thể: chiến sĩ và mẹ chiến sĩ, những người gián tiếp hoặc trực tiếp đóng góp máu xương cho cuộc chiến.
Ở mẹ liệt sĩ – hay kém vinh quang một tí nhưng may mắn hơn: mẹ chiến sĩ – tinh thần, phong cách cách mạng e rằng đã biến mất từ lâu.
Các ông bố giữ tinh thần cách mạng bền hơn, cao hơn, tương đối ít khó khăn, nhờ bản chất cứng rắn, hoàn cảnh sống thường khác xa các bà mẹ. Bản thân nhiều ông cũng đang giang hồ, phiêu bạt, có dịp về thăm nhà, nhiều khi thấy con mà tưởng trẻ hàng xóm. Tình đồng đội, đồng chí nặng hơn tình gia đình…
Các bà khác hẳn. Đứa con từ lúc lọt lòng cho đến tuổi bị gọi đi làm “nghĩa vụ” thường quanh quẩn bên bà. Mất nó, đau hơn mất một phần thân thể. Cũng có bà nghe tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, thấy cái vẫy tay ưu ái của bác Hồ nhắm vào con mình thì hãnh diện, cảm động, mà quên đau. Nhưng như thuốc tê, chỉ hiệu nghiệm một thời gian ngắn. Muốn hết đau lâu dài, phải có ý chí sắt đá của những bậc anh hùng hào kiệt, đủ sức tự hủy diệt một phần nhân tính của mình.
Thế nên, thuốc tê người ta bơm vào tâm trí các bà mẹ tiêu tan nhanh lắm.
Thủa xa xưa lúc khởi đầu cuộc chiến, Bác Đảng còn tổ chức lễ tiễn đưa chiến sĩ lên đường khá xôm tụ. Lớn thì kèn trống ỏm tỏi, nghi lễ hoành tráng, nhỏ thì cũng có nhi đồng quàng khăn đỏ ca múa, có những thanh nữ nhìn các anh thiết tha ngưỡng mộ, ngầm hứa hẹn sẽ chờ ngày các anh chiến thắng trở về.
Và trong “lễ hội” kiểu này, dù lớn hay nhỏ, đều có lời phủ dụ của Bác và diễn văn “động viên” hùng tráng, nẩy lửa của các quan chức. Vừa bơm thật nhiều “tiết vịt” vào con, vừa tống thêm thuốc tê cho mẹ.
Nhưng ngay cả trong giờ phút vinh quang “đỉnh điểm” ấy, đại đa số các bà mẹ vẫn đứt ruột, nát gan, chịu đựng niềm đau không thuốc nào làm dịu được. Và trong lúc lũ con hồ hởi, phấn khởi, tinh thần cách mạng, yêu nước cao vút, nhai ngấu nghiến đống bánh vẽ Bác Đảng ban cho, thì các bà mẹ cũng âm thầm nuốt những giọt lệ. Phải kín đáo, giả bộ tươi tỉnh để sau cái họa mất con, khỏi lãnh thêm búa rìu kiểm thảo của làng xóm, khóm phường.
Nhưng những buổi lễ long trọng đầy tiết vịt và thuốc tê biến lâu rồi, đã thành cổ tích rồi. Lò lửa chiến tranh lan rộng, cần cung cấp nhiên liệu nhiều và nhanh. Ném bao nhiêu nhân mạng vào cũng không đủ.
Đảng và nhà nước quá bận rộn, lễ tiễn đưa long trọng không còn mà lời “động viên” của Bác Đảng cũng hết văn hoa, bay bướm. Không có quan chức nào đến gặp mẹ con các chuẩn chiến sĩ để đọc diễn văn. Trọng trách “động viên” giao hết cho Công an phường.
Nhiều khi Công an phường lười biếng, sai anh dân phòng đi thay. Phẩm chất cuộc động viên cũng không suy giảm mấy. Bởi vì bài diễn văn tiễn đưa chiến sĩ chỉ ngắn ngủn, cộc lốc thế này:
“Chị kia! Thằng con chị mà trốn nghĩa vụ là cả nhà chị mất hộ khẩu. Đói nhăn răng ra cả lũ.”
Dòng lệ thương con, thương thân của các bà mẹ miền Bắc chảy dài suốt thời binh lửa, hòa bình đến, nếu chẳng may lên chức mẹ liệt sĩ, sẽ tiếp tục chảy hoài tới phút lâm chung. Lời phủ dụ đường mật, ngọt ngào của Bác, những khẩu hiệu cách mạng, yêu nước hùng hồn, tinh thần này, phong cách nọ… Đảng tống vào tai bà chỉ như những cọng rơm, cọng rác rơi trên dòng nước lũ, vừa chạm mặt nước là trôi tuột đi biền biệt, mất tăm.
Khó thấy phong cách cách mạng ở các bà mẹ, ta tìm cái phong cách quý hóa ấy nơi các cựu chiến sĩ xem sao.
Chuyện này dễ ợt. Sẵn xe đạp, cháu đạp ra đầu đường là thấy ngay một vị cựu Đại Tá, chủ nhân một cơ sở thương mại chuyên ngành công nghệ vá xe. Nếu khó tính, muốn gặp một cựu chiến sĩ chủ nhân một cơ xưởng sản xuất hoành tráng hơn thì quá bộ tới cuối đường, vừa truy tầm “phong cách cách mạng” vừa thưởng thức món chè đậu đen của ông Trung Tá.
Bảo rằng hồi xưa, trong chiến tranh, Đại Tá tác phong cách mạng cùng mình thì đúng rồi, nhưng giờ ngồi vá lốp xe độ nhật ở đầu đường, chỉ cần kiên cường bào mỏng cao su và bôi keo, rồi dán rồi ép, thì cần gì tới cái món oai phong lẫm liệt ấy.
Nếu cháu nói: Đại Tá thường rất “phấn khởi” thì bà con chịu liền. Đang ế khách, ngồi vêu ra mà thấy một đứa mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thất thểu dắt cái xe xì lốp đến nộp mạng, thì phấn khởi quá đi chớ. Một ngày cần phấn khởi năm bảy phát như thế thì mới đỡ đói.
Không phải Đại Tá nào cũng hành nghề vá xe đẹp và thơ mộng như trong ca dao. Không phải mẹ liệt sĩ, chiến sĩ nào cũng buôn thúng bán mẹt, hay xui xẻo “tác nghiệp” trên những đường phố đang được giải tỏa, làm sạch, nên thường bị đuổi chạy có cờ. Nhưng trong tình trạng cả nước “kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn” thì đại đa số cựu chiến binh cũng phải sinh nhai bằng những nghề phẩm chất ngang tầm nghề của Đại Tá. Thiếu tá bán kem, Đại úy thổi kèn đám ma, Thượng úy buôn gà, Trung úy về nhà bám đít con trâu v.v…
Những bà mẹ liệt sĩ tất tả ngược xuôi trên đường phố hay dầm mưa dãi nắng trên ruộng đồng… mức nhọc nhằn gian khổ chẳng khác gì nhau.
Trong tình cảnh ấy mà có đứa xuất hiện giữa chợ, đánh trống thổi kèn om xòm ca tụng họ giầu “phong cách cách mạng” thì họ tưởng thằng ấy đang mỉa mai, xỏ xiên mình. Ông Đại Tá vá xe có thể nổi đóa.
Vậy ta nên dẹp bỏ cuộc điều tra chiến sĩ và mẹ chiến sĩ, vừa vô duyên, vừa nguy hiểm. Ta nhắm vào một mục tiêu lớn hơn: toàn dân.
Ta chọn một ngày đẹp trời, toàn dân Việt từ Bắc chí Nam đều no ấm, nhất là no. Người nào ra đường cũng đầy một bụng bo bo, no lâu ghê lắm.
Rồi cháu mở cuộc điều tra sâu rộng xem có thấy ai lộ ra “phong cách cách mạng” thì chỉ cho chú, ta chụp hình, quay video làm bằng cớ cho những người chống Cộng trắng mắt ra.
Chú thì bi quan, không tin cái món quý hóa đó còn tồn tại nơi những người dân khốn khổ. Nó cũng biến mất trong giới lãnh đạo. Nhìn đám quan chức Việt Nam bây giờ thấy nhan nhản những phong cách tư bản đỏ, phong cách cửa quyền, đại gia, phong cách tôn thờ thủ tục “đầu tiên”!
Vậy ta hãy tìm một loại phong cách khác, thực sự do chủ nghĩa Cộng Sản đem đến cho dân tộc, cái phong cách đặc biệt khác hẳn phong cách của người Việt Nam xưa nay: đó là phong cách của những người thấm nhuần chủ nghĩa Cộng Sản. Nói gọn là “phong cách Cộng Sản”. Món này rất dễ kiếm.
Chắc cháu nhớ nhà văn Vũ Hạnh.
Sống giữa thủ đô Việt Nam Cộng Hòa, ông Vũ thân Cộng ra mặt, ông công khai biểu lộ lập trường yêu kính Bác, ủng hộ Đảng trong lời nói, trong văn chương. Ông viết truyện cổ tích, truyền kỳ dùng rất nhiều ẩn dụ trong truyện ngắn, truyện dài để tôn vinh chủ nghĩa xã hội, con người Cộng sản. Những viên chức kiểm duyệt ngu gì mà không biết, nhưng họ không làm phiền ông. Sáng tác Vũ Hạnh được đăng báo, in thành sách lu bù.
Còn các văn hữu? Họ chỉ thấy ông là một nhà văn. Võ Phiến, Vũ Hạnh là hai người có lập trường trái ngược, như nước với lửa. Nhưng gặp nhau ở tòa soạn tạp chí Bách Khoa, hai ông vẫn chuyện trò thân mật vui vẻ.
Hãy tưởng tượng có một Vũ Hạnh ở miền Bắc, giữ lập trường “thân Quốc gia”. Số phận ông ta sẽ ra sao? Đời ông sẽ khốn khổ khốn nạn hơn những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. “Nhân Văn” chỉ mới phạm tội chê Bác Đảng, muốn xin tí ti tự do. Họ không ca tụng, hợp tác với kẻ thù, như Vũ Hạnh.
Sẽ có hàng hàng lớp lớp những Thu Tứ xông lên, lôi văn chương ông ra phân tích để buộc tội “làm hại nước”, nói nôm na là “phản quốc”. Bạn văn của ông sẽ đua nhau đấu tố ông. Những bạn thân nhất, dù thương ông cách mấy, cũng sẽ cắt đứt “liên hệ” để khỏi bị vạ lây.
Nhưng Vũ Hạnh không ở miền Bắc, dưới chế độ ông mơ tưởng, mà đang tạm gồng mình sống trong cái chế độ mà ông chê bai, thù ghét nên gia đình ông được an toàn, và bản thân ông được hưởng sự nể trọng xã hội dành cho những nhà văn, nhà thơ.
Cho đến khi Vũ Hạnh thừa thắng xông lên, nhảy vọt từ văn chương sang hành động, ông mới bị bắt. (Sau này, theo chính những bài báo kể công trạng của “chiến sĩ hoạt động trong vùng địch” thì ông chỉ huy một cái “thành đoàn” gì đó có liên quan đến những vụ khủng bố, ám sát – không nghe ông cải chính.)
Đến nước ấy thì các nhà văn, nhà thơ miền Nam đã nhìn rõ chân dung một người – nói theo kiểu Thu Tứ – “làm hại nước” và nên mặc cho cơ quan công lực đối phó với tên phản nghịch.
Nhưng không, văn giới miền Nam, vì không có tí tẹo phong cách Cộng sản nào, cứ xúm xít bênh Vũ Hạnh. Linh mục Thanh Lãng, chủ tịch Trung Tâm văn bút, dẫn đầu một phái đoàn vào tận dinh Độc Lập nói chuyện với Tổng Thống. Và thế là kẻ không những chỉ viết mà còn hành động “làm hại nước” được ra về thư thới hân hoan để tiếp tục nằm vùng, “hoạt động nội thành”.
Sau 75, như tất cả những người miền Nam có công phục vụ Bác Đảng, Vũ Hạnh cũng được hưởng ân huệ, được ban cho tí quyền hành để vênh váo, bắt nạt văn giới, mạt sát những đứa xưa kia đã khờ khạo cứu ông… nghĩa là thể hiện phong cách Cộng Sản một cách bình thường thôi.
Phải gần bốn thập niên sau, cái phong cách quý hóa ấy mới bùng nở rực rỡ, to tướng, vượt lên cao vút, ngang tầm những đỉnh cao trí tuệ loài người khác của đất nước Việt Nam hôm nay. Dù muộn, loài hoa “phong cách” có cơ hội vẫn nở được. Thời cơ vừa đến, cụ Vũ Hạnh chớp liền.
Số là mới đây, một nhà xuất bản trong nước được cho phép tái bản sách của các nhà văn của miền Nam xưa, trong số có một cuốn của Dương Nghiễm Mậu.
Sách của văn hữu DNM vừa trình làng, cụ Vũ Hạnh viết bài đánh liền, đại khái thì cũng là nội dung sách phản động, thiếu phẩm chất cách mạng, có hại cho tinh thần độc giả trẻ v.v… giống hệt những bài bọn bồi bút của Đảng sỉ vả văn chương văn hóa miền Nam cách đây gần nửa thế kỷ.
“Chỉ điểm” “mách bu” để mong Đảng ra tay triệt hạ sự nghiệp văn chương của một văn hữu đã từng ký tên vào kiến nghị cứu mình thoát cảnh tù tội, phong cách Cộng Sản của cụ Vũ to quá. Chắc chắn to hơn những nhà văn nhà thơ miền Bắc thời đấu tố Nhân Văn Giai Phẩm. Mấy vị này phải sỉ vả, chửi bới các văn hữu nạn nhân vì con dao đao phủ của Bác Đảng kề vào cổ họ, dọa chặt đứt luôn nguồn sống của gia đình họ. Còn Vũ Hạnh không bị ai đe dọa, xúi dục. Cụ tự nguyện làm việc ấy để tỏ lòng trung thành với Đảng chơi vậy thôi.
Phong cách Cộng Sản của Vũ Hạnh, như bông hoa nở muộn lúc cuối đời, như thế là to lắm, nhưng không to nhất.
Muốn thấy cái nhất, cháu chỉ việc đứng trước gương, chiêm ngưỡng phong cách Cộng sản của chàng Thu Tứ.
Thoạt nhìn, tưởng phong cách hai người to đẹp bằng nhau. Cũng lôi văn hữu ra đấu tố, cũng muốn chôn văn nghiệp của kẻ dám xúc phạm Bác Đảng. Một già một trẻ, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Rất xứng đôi vừa lứa. Lại tiếc cháu sinh lầm nhà, bị mang tiếng bất hiếu. Nếu thuộc dòng dõi cụ Vũ Hạnh mà viết bài mạt sát Võ Phiến hay ho, uyên bác thế này thì hai bố con đã được đời trầm trồ khen ngợi: “Cha nào con nấy”.
Lại được khen thêm: “Hậu sinh khả úy” vì phong cách Cộng sản của Thu Tứ vượt xa Vũ Hạnh. Cụ Vũ, nếu lời nói còn được Đảng coi trọng, thì chỉ làm nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ nay mất toi cơ hội kiếm tí tiền còm nhờ sách tái bản. Thu Tứ “đánh” nhà văn Võ Phiến ác hơn, hiểm độc hơn. Cậu nghiên cứu “tội lỗi” của cha hàng mấy năm trời, từ tội lỗi trong văn chương đến tinh thần phản động trong lời nói riêng tư giữa cha con, Thu Tứ thành khẩn khai báo tuốt luốt.
Sợ Công an không tin, cậu còn luôn luôn nhấn mạnh: “Tôi ở cùng nhà với VP, tôi hiểu (tội phản động của) Võ Phiến hơn ai hết”. Thu Tứ kết tội thẳng thừng: văn chương Võ Phiến làm hại tình đoàn kết dân tộc (tội đại hình, vi phạm điều 87 luật hình sự), đả kích, nói xấu Cách Mạng, “làm hại nước” nghĩa là “chống nhà nước” (tội đại hình, vi phạm điều 88).
Cụ Võ mà kẹt ở Việt Nam như Dương Nghiễm Mậu thì phen này ngồi tù mút mùa.
Việt Cộng già Vũ Hạnh thua xa Việt Cộng trẻ Thu Tứ. Sự thật ấy có thể làm cụ Vũ Hạnh khó chịu. Những con người bạc ác, tâm địa phản phúc, thường hay có thêm tật xấu là ganh ghét kẻ tài giỏi hơn mình, nhất là trên địa hạt nâng bi kiếm điểm. Cháu nên coi chừng chuyện bị cụ Vũ ghen tức.
Bị Vũ Hạnh ghen mà chắc chắn cũng bị Bác Hồ ghen tị luôn.
Thành tích đấu tố thời Cải Cách Ruộng đất của Bác cũng siêu lắm. Bác đeo râu, ngụy trang (Trần Đĩnh) đi xem lũ lâu la hành hạ, sát hại một đại ân nhân của mình. Nhưng thành tích vĩ đại này vẫn có vài chỗ hơi yếu, khiến nó mất chức vô địch. Bài văn đánh địa chủ của Bác ngắn ngủn, lại có cái tiêu đề không giầu “tính văn chương” là: “Địa chủ ác ghê!”, so thế nào được với bài văn tố cha tràng giang đại hải, đầy công phu nghiên cứu của Thu Tứ.
Nhất là cái nhược điểm: bà Cát Hanh Long không phải là người ruột thịt của Bác.
***
Chú thắc mắc và hẳn cháu cũng ưu tư: Hành động của Vũ Hạnh có được đồng bào trong nước “hoan nghênh” không?
Ngay sau khi bài đánh Dương Nghiễm Mậu xuất hiện, chú đọc báo, đọc mạng để xem phản ứng. Kết quả không mấy vui. Giới văn chương, báo chí, đa số là những cây viết trẻ, phản đối, sỉ vả cụ ghê quá. Coi bộ hành động “chỉ điểm”, “mách bu” không được nhiều người ái mộ, nhất là những người sống dưới chế độ độc tài, đang là nạn nhân của guồng máy đàn áp vĩ đại, tinh vi.
Có một độc giả trẻ nhận xét: “Tố cáo một nhà văn khác để nhà nước trù dập người ta, Vũ Hạnh không giữ đúng tư cách của một nhà văn!”
Hóa ra văn giới ở Việt Nam bây giờ, cả già lẫn trẻ, đã hiểu rất rõ về cái chế độ ngồi trên đầu họ. Những hoang mang kinh hãi đã hết, những ảo vọng, kỳ vọng lúc đầu đã tan, người Việt miền Nam chê phong cách Cộng Sản và, như người Bắc, nhất định “giữ lại phần lớn nền nếp cũ”, nghĩa là sống có luân thường đạo lý, hành xử có ơn trả, nghĩa đền, suốt đời mang nặng nghĩa mẹ, công cha. Họ lại tiếp tục truyền cho các thế hệ sau câu ca dao bình dị mà họ đã học từ tiền nhân: “Công cha như núi Thái Sơn…”
Được thêm phong cách Cộng sản, cụ Vụ Hạnh mất tư cách nhà văn!
Cháu có thể lý luận: “tư cách” của Vũ Hạnh to, còn “tư cách nhà văn” của mình bé xíu, mất thì thôi nhằm nhò gì.
Cháu lầm, không chỉ mất ít thế đâu. Cái phong cách Cộng Sản to lớn cồng kềnh trên người cháu đã chiếm hết chỗ của những phong cách, tư cách rất cần thiết cho một con người.
Những phong cách làm nổi bật những khác biệt giữa ta và loài muông thú.
Kiều Phong