Lãnh đạo CSVN trong quan hệ Mỹ Trung
Trần Trung Đạo
Người dân Việt Nam, trong cũng như ngoài nước,
rất quan tâm đến vận nước nhưng đa số sống trong tâm trạng chờ đợi. Chờ đợi
người yêu nước và nhiều khi cũng chờ đợi cả kẻ bán nước. Chờ đợi đồng minh và
chờ đợi luôn kẻ thù. Mỗi tin tức chính trị là cơ hội để những người chờ đợi bàn
thảo, suy diễn theo ước muốn và quan điểm chủ quan của mình. Chuyến đi của
Nguyễn Phú Trọng gây nhiều bàn thảo trước khi y đi, phân tích khi y đến, dự đoán
những gì sẽ xảy ra sau khi y về.
Nhưng rồi, cũng như bao nhiêu chuyến đi trước của các lãnh
đạo CS, sẽ không có gì thay đổi cả. Ngoài Biển Đông, máu của ngư dân Việt Nam đã
đổ và sẽ tiếp tục đổ. Trong lòng biển, nguồn dầu khí Việt Nam ngày càng bị vét
cạn. Trên đất liền, tài nguyên thiên nhiên bị Trung Cộng khai thác sẽ còn tiếp
tục bị khai thác. Chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng không tạo ra nên một thay đổi
cấp bách và tức khắc nào trong bang giao Việt Mỹ và Việt Trung bởi vì thay đổi
mang tính cách mạng không phải là mục đích của y.
Mục đích chuyến đi của Nguyễn Phú
Trọng
Một số nhà phân tích cho rằng sự kiện Trung Cộng vào ngày 1
tháng 5, 2014 đã đưa giàn khoan HD-981 đến cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng
Sa chỉ 17 hải lý và cách đảo Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi 120 hải lý trong khi
cách đảo Hải Nam đến 180 hải lý, là điểm vượt giới hạn (tipping point) mà CSVN
có thể chấp nhận. Hành động bành trướng một cách lộ liễu của Trung Cộng ít nhiều
đã làm cho khuynh hướng chống Tàu gia tăng trong nội bộ lãnh đạo CSVN. Trung
Cộng khôn ngoan tạm thời dời giàn khoan để làm dịu tình
hình.
Giả thiết Trung Cộng nhận ra và dừng lại tại điểm vượt giới
hạn, rồi những gì xảy ra trước sự kiện HD-981, hàng trăm vi phạm trắng trợn luật
quốc tế, nghiêm cấm đánh cá, húc đụng tàu bè và tàn sát ngư dân Việt Nam của
CSTQ chẳng lẽ là trong giới hạn và được lãnh đạo CSVN chấp nhận hay
sao?
Hôm 18 tháng 7 vừa qua, Nguyễn Phú Trọng phát biểu
tại Hà Nội “Về nước cũng nhận được nhiều
đánh giá, gọi điện hỏi, chúc mừng, cho đây là thành công rất lớn, gọi đây là
cuộc gặp gỡ lịch sử, xem ông cộng sản Việt Nam đi ra nước ngoài thế nào mà đến
Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng, đối thoại với Tổng thống Mỹ, là việc chưa từng có
trong lịch sử, mà lại là hai ông cựu thù”.
Mục đích hàng đầu của Nguyễn Phú Trọng đúng là “đến Phòng Bầu dục Nhà Trắng, đối thoại với
Tổng thống Mỹ”. Rất đơn giản, không có gì phức tạp như nhiều người bàn tán.
Nguyễn Phú Trọng muốn chứng tỏ cho thế giới và nhất là nhân dân Việt Nam thấy Mỹ
đã thừa nhận tính chính danh của đảng CS. Lần đầu tiên một Tổng Bí Thư đảng CSVN
đặt chân vô Tòa Bạch Ốc. Không lạ gì trước ngày đi, mấy trăm tờ báo và các hệ
thống truyền hình, truyền thanh của đảng đều nhấn mạnh đến chuyện “thảm đỏ” theo
cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Tập Cận Bình, tháng Tư năm nay, đã dành cho Nguyễn Phú
Trọng một buổi tiếp đón trịnh trọng ngoài sức tưởng tượng của y mặc dù trước đó
đã từ chối tiếp y. Hình thức tiếp đón dù màu sắc bao nhiêu cũng không gây tiếng
vang quốc tế nào vì cả hai đều là lãnh đạo của hai đảng CS. Như người viết đã
trình bày trong bài trước, cách Mỹ tiếp đón Nguyễn Phú Trọng cho thấy Mỹ chỉ
thừa nhận yếu tố CSVN trong xung đột Biển Đông chứ không phải thừa nhận tính
chính danh lãnh đạo Việt Nam của đảng CS.
Đối với các đảng CS cầm quyền, tính chính danh vô cùng quan
trọng. Tấm bình phong “giải phóng dân tộc” đã giúp cho các đảng CS ở châu Á tồn
tại đến nay trong khi hầu hết các đảng CS châu Âu đều sụp
đổ.
Sau biến cố Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình nhận ra rằng chỉ
đề cao “tư tưởng Mác Lê” chẳng những không đủ mà còn là một đe dọa đối với chế
độ. Để ngăn chặn các tư tưởng tự do dân chủ đang lan rộng trong giới trí thức
trẻ, y chỉ thị phải chuyển hướng tuyên truyền từ chủ nghĩa Mác Lê sang chủ nghĩa
dân tộc. Ngay cả đảng CSTQ cũng phải thay hình đổi dạng từ một đảng vô sản
chuyên chính sang loại hình CS dân tộc. Các lãnh đạo CSVN đã và đang áp dụng gần
như rập khuôn phương pháp tuyên truyền của CSTQ qua việc đưa vai trò của chính
phủ nổi bật hơn vai trò của đảng và lừa gạt được khá nhiều
người.
Trước ngày đi Mỹ, Nguyễn Phú Trọng đã vội vã sang Bắc Kinh
triều kiến Tập Cận Bình và trấn an y. Bản tuyên bố chung giữa Nguyễn Phú Trọng
và Tập Cận Bình ký ngày 8 tháng Tư năm nay mang nội dung đầu hàng, thần phục.
Người đọc có cảm tưởng văn bản này ký năm 1955 khi CSVN thở nhờ bình dưỡng khí
Trung Cộng chứ không phải 2015.
Đọc toàn văn bản tuyên bố giữa Tập Cận Bình và Nguyễn
Phú Trọng, một người có chút ít kiến thức và nhận thức chính trị căn bản không
khỏi ngỡ ngàng. Ngày nay, nhân loại đã bước đi một đoạn đường trên thiên niên kỷ
thứ ba văn minh dân chủ mà Nguyễn Phú Trọng còn buông ra được những câu sặc mùi
Diên An, Pác Bó như “tình hữu nghị truyền
thống Việt - Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các
nhà lãnh đạo tiền bối hai nước đích thân vun đắp là tài sản quý báu của hai
Đảng”. Y cũng không quên những lời nịnh bợ Trung Cộng một cách lạc lõng khi
nhắc lại thời kỳ Mao còn mỗi đêm nã vài ngàn viên đại pháo sang các đảo Kim Môn
và Mã Tổ như “ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển
Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết
phản đối hành động chia rẽ Đài Loan độc lập dưới mọi hình
thức”.
Chuyến đi Mỹ và nội dụng những lời phát biểu Nguyễn Phú
Trọng tại Mỹ nếu không phải toàn văn thì cũng đại ý đã được trình bày với Tập
Cận Bình. Do đó, mặc dù rất nhạy cảm trước các biến cố ngoại giao gây bất lợi
cho Trung Cộng, lãnh đạo Trung Cộng không bày tỏ một thái độ bất bình chính thức
nào trước chuyến viếng thăm Mỹ của Nguyễn Phú Trọng.
Biết thế nhưng tại sao Obama vẫn
tiếp Nguyễn Phú Trọng?
Tại sao không? Các lãnh đạo Mỹ tiếp bất cứ chính trị gia,
lãnh đạo đảng, nhà nước nào phục vụ cho chính sách đối ngoại, trong trường hợp
này là bao vây Trung Cộng, của Mỹ. Augusto Pinochet của Chile, Manuel Noriega
của Panama, Emílio G. Médici của Ba Tây, Mobutu Sese Seko của Congo, Hosni
Mubarak của Ai Cập, Samuel Doe của Liberia và một danh sách dài của các lãnh đạo
độc tài đã từng được các tổng thống Mỹ bắt tay hay chào đón tại Phòng Bầu Dục,
tòa Bạch Ốc.
Chưa đầy hai năm trước ngày Muammar Gaddafi và con trai của
y Mutassim Gadahfi bị giết, tháng Tư 2009, bà Hillary Clinton đã tiếp Mutassim
Gadahfi tại Washington DC và ca ngợi việc tái lập quan hệ ngoại giao với kẻ đã
từng bị TT Ronald Reagan gọi là “chó điên” nhưng cũng chính Hillary Clinton đã
đùa giỡn với các phụ tá “Chúng ta Đến, Chúng ta Thấy, Hắn Chết!” ("We Came, We
Saw, He Died!") khi được báo tin Muammar Gaddafi bị quân cách mạng
giết.
Mobutu Sese Seko, một trong những tên độc tài tàn ác nhất
Phi Châu, có tài sản ước lượng 5 tỉ đô do biển thủ suốt 32 năm cai trị Congo.
Sau khi thăm viếng lãnh tụ CS Bắc Hàn Kim Nhật Thành về, Mobutu đã rập khuôn
theo cách cai trị tàn ác của họ Kim. Y ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc
kỳ, quốc ca, và tháng 10, 1971 thay cả tên nước. Mobutu Sese Seko là một trong
những nhà độc tài đã được đón tiếp trịnh trọng đến bốn lần (ba lần dưới thời
Ronald Reagan, một lần dưới thời George H. W. Bush) tại Phòng Bầu Dục Tòa Bạch
Ốc. Tuy nhiên, cũng chính phủ Mỹ năm 1993 đã từ chối cấp thông hành cho Mobutu
vào Mỹ khi con cờ chống Liên Xô tại Phi Châu đã không còn cần
thiết.
Từ “Xoay trục Thái Bình Dương”
(Pacific Pivot) đến “Tái cân bằng” (Rebalance) Á Châu của
Mỹ
- Thời TT Bill
Clinton. Các nhà chiến lược Mỹ đã thấy nhu cầu xoay trục sang Á Châu rất
sớm. Sau Chiến tranh Lạnh, quyền lợi kinh tế thương mại đã được nâng lên ngang
tầm với quyền lợi về an ninh quốc gia. Bộ trưởng Thương Mại Ron Brown dưới thời
Bill Clinton đã tuyên bố “Quyền lợi thương mại hiện nay ngang mức với an ninh
thế giới trong chính sách đối ngoại”. Thượng Đỉnh của Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Á
Châu Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11, 1993 tại Seattle tất cả thành viên của
ASEAN, ngoại trừ Mã Lai, đều tham dự. Quan hệ mậu dịch hai chiều giữa Mỹ và các
nước ASEAN vào 1996 đã lên đến 109 tỉ đô la, 57% cao hơn so với Trung Cộng và
cao hơn so với Nam Mỹ hay so với Phi Châu. Việc TT Clinton đồng ý tái lập quan
hệ ngoại giao với CSVN vào tháng Bảy 1995 cũng là phần trong chiến lược xoay
trục sang Á Châu của Mỹ. Tuy nhiên suốt thời kỳ của TT Bill Clinton, chính sách
Mỹ đối với Trung Cộng đặt nặng trên các yếu tố kinh tế thương mại hơn là quân
sự. Theo kết quả thăm dò của Gallup năm 1999, 47 phần trăm số người được hỏi cho
rằng TT Clinton đã đi quá xa trong việc duy trì một quan hệ xây dựng với Trung
Cộng.
- Thời TT George
W. Bush. TT George W. Bush thuộc đảng Cộng Hòa và bộ tham mưu của ông là
những Cộng Hòa bảo thủ. Chính sách đối ngoại của TT George W. Bush được các tóm
tắt bằng ba chữ ABC (Anything But Clinton) nghĩa là bất cứ chính sách nào ngoại
trừ các chính sách đã được TT Bill Clinton theo đuổi. Suốt thời gian vận động
ứng cử George W. Bush nhấn mạnh Trung Cộng là một đe dọa chiến lược đối với Mỹ
chứ không phải là hợp tác chiến lược như TT Clinton biện hộ. Condoleezza Rice,
Cố Vấn An Ninh Quốc Gia và sau đó là Ngoại Trưởng thời TT Bush tố cáo “Trung
Cộng đang thay đổi cán cân quyền lực theo ý họ”. Chỉ 100 ngày sau khi nhậm chức,
TT George W. Bush tuyên bố “sẽ làm tối đa những gì để có thể làm để giúp Đài
Loan bảo vệ chính họ” trong trường hợp bị Trung Cộng tấn công. Các tổng thống
tiền nhiệm dù Cộng Hòa hay Dân Chủ đều tránh trả lời một cách dứt khoát như TT
George W. Bush.
- Trung Cộng “đục
nước béo cò” sau biến cố 9/11. Biến cố ngày 11 tháng 9, 2001 đã buộc chính
phủ Mỹ đặt trọng tâm vào Trung Đông hơn là Á Châu Thái Bình Dương. Mỹ cũng cần
hòa dịu với Trung Cộng vì muốn Trung Công nếu không ủng hộ Mỹ công khai tại Liên
Hiệp Quốc và các diễn đàn quốc tế, ít ra cũng bằng lòng ngầm khi Mỹ phát động
chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Chiến tranh Iraq là một cơ hội để Trung
Cộng bành trướng Á Châu Thái Bình Dương. Yuan Peng, Giám đốc bộ phận Mỹ thuộc
Viện Trung Quốc về Quan Hệ Quốc Tế Hiện Đại thừa nhận “Chúng tôi nắm lấy cơ hội
để cải thiện kinh tế, cải thiện các mối quan hệ với láng giềng và cải thiện quan
hệ với Mỹ”. Gọi là “cải thiện các mối quan hệ với láng giềng” nhưng thực chất là
Trung Cộng gây sự với hầu hết các nước trong vùng như Nhật Bản qua vụ xung đột
đảo Senkaku vào tháng Chín 2010, bắn vào tàu đánh cá Philippine và kiểm soát
Việt Nam một cách chặc chẽ hơn. Chính phủ Mỹ nghĩ rằng dù sao Trung Cộng nên
hành xử với tư cách một cường quốc có trách nhiệm và giữ đúng lời cam kết mà Hồ
Cẩm Đào “không chủ trương độc quyền bá chủ” Á Châu Thái Bình Dương. Thực tế đã
trái ngược. Từ năm 2006, Trung Cộng chi tiêu dành cho quốc phòng cao thứ năm
trên thế giới và có mức gia tăng hàng năm cao hơn bất cứ quốc gia Tây Phương
nào.
- Thời TT Barack
Obama. Các chính sách dưới thời TT Obama bao gồm thỏa hiệp tự do mậu dịch
với Nam Hàn (FTA), tham gia đàm phán TTP là bước tiếp tục đã được thực hiện từ
thời TT George W. Bush. Chủ trương hiện đại hóa quân sự một cách cấp bách của
Trung Cộng đã đặt ra cho các nhà làm chính sách Mỹ một chọn lựa phải cứng rắn và
cụ thể hơn trước sự bành trướng quân sự của Trung
Cộng.
Năm 2010 tại Hà Nội, Hillary Clinton, lúc đó là Ngoại
Trưởng, tuyên bố mạnh mẽ Hoa Kỳ sẽ “chống lại việc bất cứ một quốc gia tranh
chấp nào sử dụng vũ lực”. Cùng vào thời gian đó, để đánh dấu 15 năm bình thường
hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, Mỹ gởi hàng loạt chiến hạm viếng thăm Đà
Nẵng hay trong khu vực biển Đà Nẵng như Hàng Không Mẫu Hạm USS George
Washington, khu trục hạm USS John S. McCain. Năm trước đó, khu trục hạm USS Blue
Ridge USS Lassen, tàu bịnh viện USNS Mercy, hàng không mẫu hạm USS John C.
Stennis và cả soái hạm của Đệ thất Hạm đội USS Blue Ridge cũng thăm viếng Việt
Nam. Mùa thu 2011 đánh dấu thời điểm chính quyền Obama đặt ưu tiên sự hiện diện
quân sự của Mỹ tại Á Châu lên hàng đầu như đã khẳng định trong diễn văn trước
Quốc Hội Úc tháng 11, 2011.
Mặc dù ngân sách quốc phòng Mỹ trong tài khóa 2011, 2012 bị
cắt giảm nhưng ảnh hưởng Lục Quân và Thủy Quân Lục Chiến nhiều hơn là Hải Quân.
Điều đó cho thấy Á Châu-Thái Bình Dương đã được đánh giá cao trong quan điểm của
các nhà chiến lược quốc phòng Mỹ. Khái niệm Trận chiến Hải Không (Air-Sea
Battle) gọi tắt là ASB là một khái niệm chiến tranh mới do các chiến lược gia
quốc phòng Mỹ đặt ra. Khái niệm này được nhắc đến lần đầu vào năm 2010 và là một
trong những điểm được các nghị sĩ và dân biểu Mỹ quan tâm nhất. Chiến lược ASB
nhắm vào hai đối tượng thù địch là Trung Cộng và Iran.
Sự kiện đưa máy bay thám thính tối tân nhất của Mỹ US P8-A
Poseidon bay trên khu vực Trung Cộng đang xây đảo nhân tạo trên Biển Đông và Khu
trục hạm chiến đấu USS Forth Worth cũng tiến vào khu vực Trung Cộng cho rằng
thuộc chủ quyền của họ là một thể hiện của phối hợp chiến lược ASB. Hôm 18 tháng
Bảy vừa qua, đích thân Đô đốc Scott Swift, Tân Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Mỹ đã bay
trên phi cơ thám tính U.S. P-8A Poseidon suốt bảy giờ trong Biển Đông. Phát ngôn
viên Trung Cộng phản ứng nhẹ và xem đó là một sự kiện quân sự hơn là một biến cố
ngoại giao và kêu gọi Mỹ không nên chọn phe trong cuộc tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông giữa Trung Cộng và các quốc gia khác trong vùng.
Chính sách bao vây, ngăn chận
(containment) của Mỹ đối với Trung Cộng
Liên Xô từng rất mạnh ở trung tâm nhưng yếu ở các vòng
ngoài và đã dẫn đến tan vỡ khi các quốc gia vùng Baltic và Trung Á ly khai đòi
độc lập. Các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc luôn bị ám ảnh với các những cuộc nổi
dậy như Thiên An Môn có thể xảy ra bất cứ lúc nào và bất cứ tại đâu trên lãnh
thổ mênh mông và dị biệt sâu sắc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Và cũng giống như
Liên Xô, lãnh đạo Trung Cộng buộc phải đáp ứng nhu cầu chuyển hóa tự nhiên của
xã hội qua các đổi mới nhưng các lãnh đạo đảng cũng không thể biết trước giọt
nước đổi mới nào sẽ làm tràn ly cách mạng dân chủ.
Các nhà chiến lược Mỹ dĩ nhiên chuẩn bị cho mọi khả năng
sụp đổ của Trung Cộng nhưng dù khả năng nào, chính sách bao vây ngăn chận tham
vọng bành trướng của Trung Cộng vẫn là chính sách được hầu hết các tổng thống Mỹ
đã và đang theo đuổi. Trong thời gian tới, Mỹ sẽ gia tăng áp lực, kể cả áp lực
quân sự, từ bên ngoài để Trung Cộng một ngày sẽ tan vỡ từ bên trong, giống như
các TT Mỹ từ Harry Truman đến Ronald Reagan đã thực hiện và thành công đối với
Liên Xô.
Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam là tam
giác?
Trong bài báo mới đây trên The Diplomat “A Tipping Point in the
US-China-Vietnam Triangle”, tác giả Alexander L. Vuving cho rằng quan hệ giữa
Mỹ, Trung Cộng và Việt Nam đang thay đổi sâu sắc và ở trong thế tam
giác.
Đánh giá Việt Nam dưới chế độ CS như là một quốc gia có tư
thế độc lập không phản ảnh thực tế kinh tế chính trị của Việt Nam trong bang
giao quốc tế. CSVN không có được vị trí của một chân kiềng hay chân vạc gì cả.
Trung Quốc và Mỹ đều muốn làm thầy, làm chủ để sai khiến giới lãnh đạo đảng Cộng
sản Việt Nam thuận theo chính sách của họ hơn là một đồng minh thân
cận.
Trong buổi tiếp xúc với “cử tri Hà Nội” hôm 18 tháng 7,
Nguyễn Phú Trọng tuyên bố một cách đắc chí “Rất hay là vừa đi Mỹ về, thì Phó thủ tướng
Trung Quốc cũng sang đây”. Nói vậy mà không biết mắc cỡ. Chẳng có gì hay.
Việc Barack Obama tiếp Nguyễn Phú Trọng, trong chiến lược chống Trung Cộng bành
trướng Á Châu cũng không khác gì khi Richard Nixon tiếp Sese Seko của Congo hay
Ronald Reagan tiêp Samuel Doe của Liberia trong chiến lược chống Liên Xô bành
trướng sang Phi Châu. Tất cả chỉ là những con cờ ngắn hạn của
Mỹ.
Kết
luận
Việt Nam hiện trong vị trí của một quốc gia độn (buffer
state). Bài học từ hai cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam cho thấy Trung Cộng
bằng mọi cách sẽ giữ quốc gia độn Việt Nam trong vòng lệ thuộc hay ảnh hưởng. Mỹ
cũng biết Trung Cộng không dễ dàng thả lỏng Việt Nam nhưng với chính sách bao
vây, Mỹ tiếp tục gây áp lực kể cả áp lực quân sự để Trung Cộng đến một thời điểm
chín mùi cho sự tan rã sẽ tan rã từ bên trong.
Đành rằng nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung
Cộng với 30% nhập cảng, 12% xuất cảng, 25% du khách viếng Việt Nam, nhưng Trung
Cộng không phải là nước không phụ thuộc vào ai. Khoan nhắc đến các yếu tố tham
nhũng có tính đảng, chủ nghĩa dân tộc tai họa, tình trạng nhân quyền tồi tệ, ô
nhiễm hàng đầu thế giới, chỉ riêng nền kinh tế suy thoái do giảm đầu tư nước
ngoài, mức xuất cảng các sản phẩm kỹ nghệ nặng xuống thấp, mất cân đối trong các
ngành sản xuất là những vấn đề mà các lãnh đạo Trung Cộng phải điên
đầu.
Giả thiết Việt Nam là một Nam Hàn, Singapore, Thái Lan, Mã
Lai, Trung Cộng có thể vẫn tìm cách gây hấn, ăn hiếp nhưng không sai khiến các
“lãnh đạo” như sai đầy tớ, muốn cho gặp thì gặp không muốn thì thôi như Tập Cận
Bình đối xử với các lãnh đạo CSVN.
Ngoài Việt Nam, Trung Cộng chia sẻ biên giới với 13 quốc
gia khác (India, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan,
Mongolia, Bhutan, Nepal, Miến Điện, Nga, Bắc Hàn, Lào). Phần lớn các quốc gia
này nhỏ hơn Việt Nam nhiều nhưng không có một lãnh đạo quốc gia nào phải chầu
chực, hầu hạ các lãnh đạo Trung Cộng như cách các lãnh đạo CSVN đã và đang
làm.
Lý do Trung Cộng sai khiến lãnh đạo CSVN dễ dàng vì chúng
biết rõ gan ruột của đàn em một lần phản trắc này xem quyền lợi của đảng lớn
hơn, quan trọng hơn sự quyền lợi của đất nước. Duy trì quyền cai trị của đảng CS
là mục tiêu tối thượng, chi phối toàn bộ chính sách đối nội và đối ngoại, ngắn
hạn cũng như dài hạn của đảng CSVN.
Khi phân tích về quan hệ giữa Việt - Mỹ và Việt - Trung,
nhiều nhà phân tích Tây phương bỏ sót một yếu tố có tính quyết định, đó là cơ
chế chính trị. Nếu đi ngược dòng lịch sử Việt Nam cận đại, các nhà phân tích đó
sẽ thấy cốt tủy của mọi xung đột chính là cơ chế chính trị
CS.
Muốn đứng thế chân vạc, một quốc gia trước hết phải có vị
trí độc lập trong tương quan về chính trị, kinh tế và quân sự quốc tế. CSVN
không có được vị trí độc lập và sẽ không bao giờ có được vị trí độc lập khi nào
đảng CS vẫn còn độc quyền cai trị Việt Nam. Để có một vị trí độc lập trong bang
giao quốc tế và để tạo thế liên minh tin cậy chiến lược, Việt Nam trước hết phải
là một quốc gia dân chủ.
Trần
Trung Đạo
____________________________________
Tham khảo:
- YU Wanl, Breaking the Cycle?: Sino-US Relations under
George W. Bush Administration. Chapter 3 and chapter 4. The National Institute
for Defense Studies, 2009.
- Congressional Research Sevice. Pivot to the Pacific? The
Obama Administration’s “Rebalancing” Toward Asia., March
2012.
- Anna Rabin, US-China Relations in the Bush Era –
Strategic Partners or Competitors? February, 2012
http://inpecmagazine.com/2012/02/01/us-china-relations-in-george-w-bush-era-hu-jintao/
- MARK MacKINNON, China's chance: How 9/11 played into
Beijing's plans in Asia, The Globe and Mail, Sep. 08, 2011
- George W. Bush on China. GeorgeWBush.com, May 25,
1999
- Mark E. Manyin, Pivot to the Pacific? The Obama
Administration’s “Rebalancing” Toward Asia, Congressional Research Service,
March 28, 2012.
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York
2011
- Robert Mcmahon. Limits Of Empire, The United States and
Southeast Asia Since World War II Columbia University Press pp 210, 211,
213
- Council on Forein Relations, China ‘s Maritime Disputs By
the Number.
- Hillary Clinton Laughs About Killing
Moammar
- Tổng bí thư: Phía Mỹ tiếp đón “vượt mức yêu cầu”,
VnEconomy, 18/7/2015.
- Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc
09/04/2015
- Chinese State Media to Pacific Fleet: We Won’t Be Pushed
Around in South China Sea
- Alexander L. Vuving. A Tipping Point in the
US-China-Vietnam Triangle. The Diplomat, July 06, 2015.
- Minxin Pei. 5 Ways China Could Become a Democracy. The
Diplomat February 13, 2013.