Saturday, August 31, 2013

Luật Hiến pháp và Chính trị học (1, 2, 3)

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học                 (1,2,3)



Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (1)
Tháng 8 17, 2013
Lời giới thiệu của pro&contra
Cuốn sách này sẽ còn phải chờ một thời gian dài, trước khi lại được xuất bản tại Việt Nam. Vì hai lẽ:
Thứ nhất, vì bản thân nội dung của nó. Ra đời gần một nửa thế kỉ trước tại miền Nam Việt Nam thời Đệ nhị Cộng hòa, nền tảng lí thuyết tổ chức một nhà nước dân chủ và pháp quyền mà nó trình bày đối lập sâu sắc với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa với độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trước sau vẫn tồn tại trong thực tế và vẫn chế ngự tư duy chính thống.
Thứ hai, tác giả của nó không phải ai khác, chính là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người bị chính quyền cách mạng ám sát ngày 10-11-1971. Lí do để ở thời điểm ấy, Hà Nội quyết định duyệt lệnh giết một giáo sư luật, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh tại Sài Gòn, gần đây được bạch hóa trên báo chí Việt Nam với một sự thản nhiên đến lạnh người. Một trong hai người trực tiếp tiến hành và tiến hành thành công vụ ám sát, ông Vũ Quang Hùng kể: “Theo tin tức tình báo, G.33 (tức ông Nguyễn Văn Bông) đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”. Trong một loạt bài vinh danh “chiến công vang dội của An ninh T4″, báo Công an cho biết thêm: “Nguyễn Văn Bông bị tiêu diệt không chỉ làm ‘đổ bể‘ kế hoạch thay đổi nhân sự của ngụy quyền Sài Gòn mà còn làm cho nội bộ địch nghi ngờ lẫn nhau“.
Trong danh sách những nhân vật xuất chúng bị chính quyền cộng sản ám sát hoặc trừ khử trong bóng tối, Nguyễn Văn Bông có nhiều điểm tương đồng với Phạm Quỳnh. Họ đều là những trí tuệ hiếm có, những trí thức có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, dấn thân trong trường chính trị cho một nước Việt Nam mới, song họ đều khước từ lựa chọn chủ nghĩa cộng sản. Gần 70 năm sau cái chết của Phạm Quỳnh, tên tuổi ông ở Việt Nam ngày nay không còn là cấm kị, một số tác phẩm của ông đã được tái xuất bản và ngày càng có thêm những công trình nghiên cứu về ông. Lịch sử đã dần bình tĩnh trở lại, tuy nỗi đau từ những tương tàn của cuộc chiến hệ tư tưởng vẫn giày vò các thế hệ đến sau. Còn Nguyễn Văn Bông? Trong cao trào thảo luận về dự thảo sửa đổi Hiến pháp vài tháng trước, Luật Hiến pháp và Chính trị học, tác phẩm chính của ông, cũng được một số người nhắc đến trong phần cước chú hay tài liệu tham khảo, song toàn văn cuốn sách này cho đến nay nằm ngoài khả năng tiếp cận của phần lớn giới độc giả hàn lâm Việt Nam.
Bản điện tử sau đây được thực hiện từ bản chụp của một trong những ấn bản hiếm hoi còn sót lại của cuốn sách này, trong đó một số trang đã bị mất. Để thuận lợi cho độc giả hôm nay, chúng tôi quyết định biên tập theo một số chuẩn mực phổ biến trong tiếng Việt hiện đại. Sự can thiệp này chỉ thuần túy mang tính kĩ thuật, chủ yếu liên quan đến chính tả, tuyệt đối không chạm vào nội dung văn bản. Bên cạnh đó chúng tôi cũng sẽ công bố bản điện tử được thực hiện trung thành với bản in, để truyền đạt nguyên vẹn ấn tượng và cảm xúc về một văn bản mang đậm dấu ấn văn hóa và lịch sử của một quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam hiện không còn tồn tại. Nguyên sách có làm mục lục chuyên đề (Index) để dễ dàng tra cứu, trong bản điện tử chúng tôi không thực hiện. Các chú thích có kèm dấu (p&c) là do pro&contra thực hiện. Tất cả còn lại là chú thích của tác giả Nguyễn Văn Bông.
_________________

MỤC LỤC
Lời tựa
Lời nói đầu cho bản in lần thứ hai
Chương mở đầu
Phần thứ nhất: Lý thuyết đại cương
Thiên thứ nhất : Những khái niệm và nguyên tắc căn bản
Chương I: Chính quyền và quốc gia
Mục I: Quyền lực, uy quyền và hiện tượng chính trị
1.     Quyền lực và quyền uy
2.     Hiện tượng chính trị
Mục II: Khái niệm chính quyền
1.     Chính quyền và cộng đồng chính trị
2.     Ý niệm và vai trò của chính quyền
3.     Những hình thức của chính quyền
Mục III: Quốc gia
1.     Định nghĩa
2.     Những đặc tính pháp lí của quốc gia
3.     Những hình thể của quốc gia
Chương II: Hiến pháp
Mục I: Thế nào là một hiến pháp?
1.     Định nghĩa thực chất và định nghĩa hình thức
2.     Hiến pháp tục lệ và hiến pháp thành văn
3.     Hiến pháp nhu tính và hiến pháp cương tính
Mục II: Thiết lập hiến pháp
1.     Quyền lập hiến
2.     Những phương thức thiết lập hiến pháp
Mục III: Tu chính hiến pháp
1.     Nhận xét tổng quát
2.     Ai có quyền đề nghị tu chính hiến pháp?
3.     Những phương thức tu chính hiến pháp
Mục IV: Bảo vệ hiến pháp
1.     Đặt vấn đề
2.     Những hình thức kiểm soát sự hợp hiến
3.     Giá trị pháp lý của “Lời nói đầu”
Chương III: Nguyên tắc dân chủ
Mục I: Khái niệm chính đáng
1.     Hợp pháp và chính đáng
2.     Nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc chính đáng trong xã hội cận đại
Mục II: Khái niệm dân chủ
1.     Định nghĩa
2.     Chủ quyền
Mục III: Đại cương về chế độ chính trị
1.     Định nghĩa về chế độ chính trị
2.     Phân loại các chế độ chính trị
3.     Chế độ dân chủ và không dân chủ
4.     Những hình thức dân chủ
Thiên thứ hai: Tổ chức chính quyền
Chương I: Những cơ quan công quyền
Mục I: Chính phủ
1.     Cá nhân điều khiển
2.     Tập thể điều khiển
3.     Cá nhân và tập thể điều khiển
Mục II: Quốc hội
1.     Vấn đề lưỡng viện
2.     Tổ chức và điều hành Quốc hội
Chương II: Những hình thức tổ chức chính quyền
Mục I: Chế độ phân quyền
1.     Nguyên tắc phân quyền
2.     Tổng thống chế: chế độ áp dụng nguyên tắc phân quyền
Mục II: Chế độ hợp quyền
1.     Khái niệm hợp quyền
2.     Chế độ nghị viện hay nội các chế
Mục III: Chế độ tập quyền
1.     Những hình thức tập quyền cổ điển
2.     Một hình thức mới, chế độ độc đảng
Chương III: Những định luật căn bản của nền dân chủ hiện đại
Mục I: Những hình thức tổ chức chính quyền cổ điển và thực tại chính trị ngày nay
1.     Những biến chuyển của chế độ nghị viện
2.     Những biến chuyển của chế độ tổng thống
3.     Sự thay đổi toàn điện điều kiện sinh hoạt xã hội ngày nay
Mục III: Một vài định luật căn bản
1.     Chính phủ, cơ quan đầu não của quốc gia
2.     Một hệ thống quyết định, tấn phong và trách nhiệm quốc gia
3.     Một hệ thống đối thoại tự do
Thiên thứ ba: Sự tham gia chính trị của công dân trong chế độ dân chủ
Chương I: Tuyển cử
Mục I: Chế độ tuyển cử và đặc tính của đầu phiếu
1.     Chế độ tuyển cử
2.     Những đặc tính của đầu phiếu
Mục II: Thể thức đầu phiếu
1.     Một vài quy tắc tổ chức
2.     Đầu phiếu theo đa số và đầu phiếu theo tỷ lệ
Mục III: Vấn đề bất tham gia cuộc đầu phiếu
1.     Mực độ bất tham gia
2.     Nguyên do của sự bất tham gia
Chương II: Những hình thức tham gia chính trị
Mục I: Công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị
1.     Tìm hiểu chính trị
2.     Lập trường chính trị
Mục II: Công dân chú trọng đến các tổ chức chính trị
1.     Chính đảng
2.     Những tổ chức không mục tiêu chính trị
Chương III: Tham gia và bất tham gia
Mục I: Thái độ phi chính trị
1.     Phủ nhận tính cách chính trị trong hoạt động
2.     Đề cao thái độ thụ động của công dân đối với thời cuộc
Mục II: Lập trường Mác-xít: Sự tham gia trong chế độ dân chủ là một trò bịp bợm
1.     Nội dung của lập trường
2.     Nhận xét
Chương IV: Đối lập chính trị
Mục I: Định nghĩa và các quan niệm về đối lập
1.     Định nghĩa
2.     Đối lập được quan niệm như thế nào?
Mục II: Vai trò của đối lập
1.     Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền
2.     Vai trò cộng tác với chính quyền
Mục III: Quy chế của đối lập
1.     Những quyền hạn của đối lập
2.     Những nghĩa vụ của đối lập
Mục IV: Đối lập trong các quốc gia chậm tiến
Phần thứ hai: Thế giới chính trị hiện đại
Thiên thứ nhất: Những chế độ dân chủ cổ điển
Chương I: Chế độ chính trị Hoa Kỳ
Mục I: Khung cảnh pháp lý
1.     Một quốc gia liên bang
2.     Một hiến pháp cương tính
3.     Một chế độ tổng thống
Mục II: Thực tại chính trị
1.     Một hệ thống chính đảng duy nhất
2.     Một chính thể đại nghị trá hình
3.     Một nền dân chủ đại diện bởi một cá nhân
Chương II: Chế độ chính trị Anh Quốc  
Mục I: Khung cảnh pháp lý
1.     Một xã hội cổ truyền thời Trung cổ
2.     Một chính thể quân chủ lập hiến
Mục II: Thực tại chính trị
1.     Một hệ thống lưỡng đảng
2.     Một chính quyền thuần nhất và một trách nhiệm quốc gia
3.     Một đối lập hữu hiệu
Thiên thứ hai: Những chế độ chuyên chế
Chương I: Chế độ chính trị Nga Sô
Mục I: Chủ nghĩa Mác-xít
1.     Căn bản triết lý
2.     Chủ thuyết kinh tế
3.     Chủ thuyết chính trị
Mục II: Những định chế chính trị Nga Sô
1.     Tóm tắt lịch sử
2.     Nhà nước Nga Sô
Mục III: Đảng Cộng sản
1.     Đặc tính và tổ chức
2.     Vai trò
Thiên thứ ba: Những chế độ cùng Đông Nam Á
Chương I: Chế độ chính trị Đại Hàn
Mục I: Lược sử chính trị Đại Hàn
1.     Từ 1945 đến 1960
2.     Từ 1960 đến cuộc đảo chính ngày 16-5-1961
3.     Sau cuộc đảo chính
Mục II: Hiến pháp Đại Hàn
1.     Quốc hội
2.     Chính phủ
3.     Pháp viện tối cao
Chương II: Việt Nam
Mục I: Từ đế quốc đến chính thể cộng hòa
1.     Khuynh hướng cộng sản
2.     Khuynh hướng quốc gia
Mục II: Chế độ Ngô Đình Diệm
1.     Phân tích Hiến pháp 26-10-1956
2.     Nhận xét
Mục III: Việt Nam sau Cánh mạng 1-11-1963
1.     Sự hình thành Quốc hội Lập hiến
2.     Quốc hội Lập hiến 1966
Chương III: Nền Đệ nhị Cộng hòa
Mục I: Lời mở đầu và nguyên tắc căn bản
1.     Lời mở đầu
2.     Những nguyên tắc căn bản
Mục II: Quyền lập pháp
1.     Quốc hội, cơ quan lập pháp
2.     Thẩm quyền Quốc hội
Mục III: Quyền hành pháp
1.     Cơ cấu hành pháp trung ương
2.     Nền hành chánh địa phương
Mục IV: Quyền tư pháp
1.     Vấn đề bảo vệ sự độc lập của thẩm phán xử án
2.     Tối cao Pháp viện
Mục V: Các định chế đặc biệt
1.     Đặc biệt Pháp viện
2.     Giám sát Viện
3.     Các cơ quan tư vấn
Mục VI: Tu chính Hiến pháp
1.     Ai có quyền đề nghị tu chính?
2.     Thủ tục tu chính
Tài liệu cần tham khảo
Phụ bản
1.     Hiến pháp của Hiệp chúng Quốc ngày 4-3-1789
2.     Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa ngày 26-10-1956
3.     Hiến ước Tạm thời số 1 ngày 4-11-1963
4.     Hiến ước Tạm thời số 2 ngảy 7-2-1964
5.     Hiến chương Việt Nam Cộng hòa ngày 16-8-1964
6.     Hiến chương Lâm thời ngày 20-10-1964
7.     Ước pháp Tạm thời ngày 19-6-1965
8.     Hiến pháp 1-4-1967
________________________
LỜI TỰA
Chính trị có được xem là bệnh dịch hạch hay là địa hạt của những xảo trá, xôi thịt, hoặc được quan niệm như cái gì chỉ liên quan đến chính đảng, đến đấu tranh về ý thức hệ, con người không thể thoát vòng kềm tỏa của chính trị.
Dù cố ý sống trong tháp ngà hay vô tình lánh xa xã hội, khung cảnh cũng như trật tự pháp lý và những vấn đề chính trị vẫn chi phối và quấy nhiễu chúng ta.
Ưu thế và tầm quan trọng của chính trị không thể chối cãi.
Trong chiều hướng ấy, quyển sách này nhằm giúp sinh viên một tài liệu học hỏi và đồng thời những ai mong mỏi mở rộng kiến thức về qui tắc căn bản Quốc gia và điều kiện thực tiễn của cuộc sinh hoạt chính trị. Chúng tôi chỉ muốn lưu ý hai điểm:
1. Khi đề cập đến luật Hiến pháp hay Chính trị học, độc giả không nên quên rằng các vấn đề pháp lý hay chính trị không thể tách rời lịch sử tổng quát, rằng Hiến pháp không phải là sáng tác của óc tưởng tượng mà trước hết là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội, của biến cố;
2. Nghiên cứu cuộc sinh hoạt chính trị hay các vấn đề hiến tính, phần thứ nhất về “Lý thuyết đại cương” có một tầm quan trọng đặc biệt. Chính trong phần này sinh viên tìm thấy những yếu tố ích lợi để có những nhận định khách quan và thực tiễn về các vấn đề trọng đại của Quốc gia, vấn đề mà sự hiểu biết rất cần thiết không những để học và thi mà còn để có dịp bày tỏ lập trường – với tư cách công dân tự do – trong cuộc tham gia vào sinh hoạt chính trị.
Saigon, ngày 10 tháng 3 năm 1967
NGUYỄN VĂN BÔNG
_______________
LỜI NÓI ĐẦU (CHO BẢN IN LẦN THỨ HAI)
Quyển sách này đã được xuất bản lần thứ nhất trong lúc Quốc hội Lập hiến đang thảo luận khung cảnh pháp lý tương lai cho Việt Nam.
Hôm nay, Hiến pháp của nền Đệ nhị Cộng hòa đã được ban hành và những định chế chính trị, dựa trên đạo luật căn bản ấy tuần tự được thiết lập. Nhìn lại quá khứ, khoảng thời gian của giao thời, chuyển tiếp, hỗn loạn, người quốc gia không khỏi hãnh diện đã xây dựng được một cái gì trong hoàn cảnh khó khăn của một cuộc chiến tranh bất qui ước. Mặc dầu kiến trúc có thể có vài khiếm khuyết, sự khai sinh nền Đệ nhị Cộng hòa đánh dấu bước đầu của ổn định và tạo khung cảnh cho một nếp sinh hoạt chính trị dân chủ tương lai.
Tuy nhiên định chế con người là hai yếu tố hoàn toàn khác biệt. Không định chế, hoạt động của con người thoát vòng kềm tỏa của pháp luật, và chúng ta trở lùi lại thời kỳ của chính quyền cá nhân để bị ảnh hưởng bởi tính hiếu kỳ hay những xúc động tình cảm của kẻ nắm chính quyền. Trái lại, những định chế, tự nó chỉ là khung cảnh, là nguyên tắc điều hướng mà sự thực hiện sống động tùy thuộc vào hoạt động của con người.
Con người có thể – vô tình hay cố ý, giết hẳn tinh thần của định chế và nguy thay – giết luôn cả sự tin tưởng của quốc dân vào định chế.
Đó là mối lo ngại lớn lao trong năm đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng hòa. Thái độ của Quốc hội khi bàn đến vấn đề phụ cấp, tinh thần vô trách nhiệm của một số vị đại diện khi phát biểu cũng như khi vắng mặt ở nghị trường, những chuyến du lịch quanh năm trong lúc địch dồn dập tấn công, những vụ tranh chấp giữa Hành pháp và Lập pháp về một số vấn đề pháp lý mà tầm quan trọng là con số không so với sự sống còn của đất nước, một quan niệm lệch lạc về phương cách tổ chức cơ quan Hành pháp… Tất cả sự kiện vừa nêu làm giảm giá trị của định chế quốc gia và – nếu còn tiếp tục – sẽ có hậu quả không hay cho tương lai nền dân chủ.
*
Với việc tái bản lần thứ hai, ngoài việc sửa chữa và cập nhật hóa thường lệ, tác giả còn dành một phần quan trọng cho việc phân tích và phê bình Hiến pháp ngày 1-4-1967. Nhân dịp, tác giả xin chân thành cảm tạ các phụ giáo tại Học viện Quốc gia Hành chánh, đặc biệt là bà Nguyễn Thị Ngọc Dung, ông Cung Đình Thanh và Lê Công Truyền đã góp phần vào việc soạn thảo quyển Luật Hiến pháp và Chính trị học này.
Saigon, ngày 10 tháng 3 năm 1969
NGUYỄN VĂN BÔNG
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.
******************************************************************
Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (2)
Tháng 8 18, 2013
Xem kì 1
Chương mở đầu
I. Luật Hiến pháp là môn luật học về Hiến pháp. Mà Hiến pháp là gì? Chúng ta sẽ dành nhiều thì giờ để bàn đến định nghĩa, hình thức cùng nội dung của Hiến pháp. Hiến pháp thường được gọi là luật căn bản. Tại sao căn bản? Vì Hiến pháp là một văn kiện gồm những luật lệ cơ bản qui định cách tổ chức và điều hành những cơ quan căn bản của quốc gia nghĩa là những cơ quan công quyền. Đọc bản Hiến pháp chúng ta biết thế nào là tổ chức chính quyền của một nước.
Luật Hiến pháp là một môn của ngành Công pháp.
Công pháp hay Tư pháp đều là luật lệ cả. Nhưng thường thường người ta chia luật pháp ra làm hai loại: Tư pháp và Công pháp.
Tư pháp: gồm một số môn như Dân luật, luật Thương mại, luật Tố tụng v.v… là tất cả luật lệ mà đối tượng chi phối tư nhân và mối tương quan giữa tư nhân và tư nhân.
Công pháp: gồm một số môn như luật Hiến pháp, luật Hành chính, luật Tài chính v.v… là tất cả luật lệ mà đối tượng chi phối quốc gia và mối tương quan giữa quốc gia và công dân.
Chúng ta không đề cập đến lý do cùng tiêu chuẩn của sự phân loại này. Giáo sư môn Dân luật thường thường trong bài đầu sẽ giải thích rõ ràng. Tuy nhiên các bạn nên ý thức rằng sự phân loại chỉ có một giá trị tương đối và dựa trên tiêu chuẩn kỹ thuật nhiều hơn.
II. Tóm lại, Hiến pháp là một ngành của Công pháp. Và một ngành tối quan trọng của Công pháp.
Vì trong Công pháp – ở đây là Công pháp nội bộ khác với Quốc tế Công pháp – vấn đề chính là tổ chức chính quyền. Tổ chức ra sao, điều khiển thế nào? Ai là người cầm quyền. Họ được chọn lựa ra sao và quyền hành họ như thế nào? v.v…
Đó là những vấn đề căn bản về tổ chức bất cứ một quốc gia nào: vì thế mà môn Hiến pháp giữ một địa vị quan trọng trong Công pháp và cũng vì thế mà luật Hiến pháp được xem là luật cơ bản.
III. Như chúng ta đã trình bày, luật Hiến pháp gồm những luật lệ qui định cách tổ chức và điều hành những cơ quan công quyền. Và trong một phần lớn các quốc gia, các luật lệ ấy được ghi chép trong một văn kiện tối quan trọng gọi là Hiến pháp.
Học luật Hiến pháp tức là nghiên cứu, giải thích và phê bình những qui luật ghi trong Hiến pháp. Tuy nhiên học luật Hiến pháp không phải chỉ nghiên cứu Hiến pháp. Vì Hiến pháp không bao gồm tất cả các luật lệ liên hệ đến tổ chức chính quyền. Hiến pháp chỉ ghi chép những nguyên tắc đại cương, có tính cách căn bản. Và thường thường trong bản Hiến pháp người ta có thấy rằng “một đạo luật sẽ qui định v.v…“. Đó là những đạo luật liên hệ đến tổ chức chính quyền mà chúng ta phải phân tích và để ý.
Nắm vững Hiến pháp cùng các luật liên hệ đến tổ chức chính quyền, đó là một vấn đề quan trọng. Nhưng tôi xin lưu ý các bạn rằng đó là chỉ khía cạnh pháp lý. Một khía cạnh quan trọng nhưng chưa đủ. Vì đôi khi nó không phản ảnh thực trạng của một quốc gia nào đó. Tại sao?
Vì luật lệ nhiều khi bị uốn nắn, làm mất hẳn mục tiêu nguyên thủy của nó.
Vì luật lệ – nhất là về phương diện chính trị – nhiều lúc chỉ là hình thức hóa một sự kiện, một hiện tượng mà chính sự kiện ấy, hay hiện tượng ấy mới là động lực.
Bởi thế cho nên, tôi đề nghị mặc dù chính thức chúng ta gọi luật Hiến pháp, nên hiểu là luật Hiến pháp và Chính trị học.
Ví dụ nếu các bạn nghiên cứu chế độ chính trị của các quốc gia cộng sản và chỉ chiểu theo Hiến pháp, thì các bạn cho là một thiên đường. Nào là tự do này, tự do nọ, nào là bình đẳng của tất cả, nào là Quốc hội, Thủ tướng v.v… Nhưng nếu chúng ta nhìn với bộ mặt thực tế thì cơ quan chính, cơ quan động lực không phải là Quốc hội, Thủ tướng v.v. mà chính là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản.
Trong các nước dân chủ thực sự cũng vậy. Vai trò của chính đảng, vai trò của các đoàn thể áp lực – dù là tôn giáo, quân nhân hay nghiệp đoàn – vai trò của tuyên truyền chính trị v.v…, tất cả những hiện tượng chính trị có một tầm hết sức quan trọng mà chúng ta cần để ý khi đề cập đến chính thể cùng cuộc sinh hoạt chính trị của một quốc gia.
Tóm lại, luật Hiến pháp cần phải được hiểu là “Luật Hiến pháp và Chính trị học”.
Chúng ta không thể học luật Hiến pháp mà không để ý đến những dữ kiện của cuộc sinh hoạt chính trị.
IV. Chúng ta đã dùng danh từ chính trị học. Thế nào là chính trị?
1. NHỮNG ĐỊNH NGHĨA CHỦ QUAN
Chủ quan ở đây tức là bao hàm một ý tưởng phê phán.
a. Có một quan niệm cho rằng chính trị liên quan đến vấn đề đạo đức. Chính trị tức là sửa chữa những sai lầm cho xã hội được ngay thẳng. Chính trị và đạo đức tương quan mật thiết với nhau. Nói đến chính trị là nghĩ đến dùng đạo đức để sửa chữa, làm cho xã hội trở nên lành mạnh. Và đây là quan niệm của triết gia thời thượng cổ.
b. Cũng trong chiều hướng chủ quan – nhưng lại đối chọi với quan niệm trên, chính trị thường được xem là phản đạo đức. Và đây là quan niệm rất phổ thông trong xã hội ngày nay. Vì chính quyền đi đôi với thế lực và lợi lộc, vì chính khách hay dùng thủ đoạn lưu manh, võ lực cùng dối trá để chiếm chính quyền, cho nên đối với đa số công dân ngày nay, cứu cánh của chính trị không khác gì hơn là tranh giành ngôi thứ, là đoạt lợi, là lưu manh, là xôi thịt.
c. Định nghĩa chủ quan trên phản ảnh một phần nào thực tế. Nhìn cuộc sinh hoạt chính trị chúng ta thấy ngay rằng chính trị quả thật bao gồm đạo đức và phản đạo đức.
Trường chính trị thoạt tiên là trường đấu tranh, chiếm quyền hành, tước vị mà kẻ thắng thế chưa hẳn là người tốt. Tuy nhiên đồng thời chính trị chi phối nhân sinh làm cho con người trong một cộng đồng xã hội cấu kết nhau, sống chung nhau dưới một kỷ luật, một nếp sống được xem là đạo lý của cộng đồng ấy.
Đạo đức và phản đạo đức, hai yếu tố này luôn luôn xen lẫn nhau trong cuộc sinh hoạt chính trị.
2. NHỮNG ĐỊNH NGHĨA KHÁCH QUAN
Để có một ý niệm khoa học về chính trị, chúng ta cần gạt bỏ mọi phê phán và nhìn vào nội dung, bản chất của chính trị. Có 3 quan niệm khác nhau về chính trị dựa trên 3 ý niệm: quốc gia, quyền hành và công việc chung.
a. Đối tượng của chính trị là quốc gia
Chính trị học nghiên cứu về quốc gia. Chính trị học là khoa học về sự cai trị các quốc gia, hay là một nghệ thuật cai trị một quốc gia và điều khiển các mối liên lạc với các quốc gia khác.
Quan niệm này bị một số tác giả chỉ trích:
- Vì quan niệm này bị giới hạn trong thời gian.
- Vì quan niệm này đưa đến những phân tích thiếu sót về thái độ chính trị cũng như về cơ cấu và định chế xã hội.
Thật vậy:
1) Danh từ quốc gia hay bị lạm dụng: dùng để chỉ bất cứ tổ chức chính trị nào ngay cho đến những cơ cấu chính trị của những bộ lạc sơ khai.
2) Quốc gia, dù sao chỉ là một thực thể trừu tượng, có tính cách lịch sử. Căn cứ trên thực thể có tính cách lịch sử ấy để nghiên cứu, phân tích thái độ chính trị, cuộc sinh hoạt chính trị hay cơ cấu cùng định chế xã hội không thể đưa đến những nhận xét khách quan, phù hợp với sự tiến triển của khuynh hướng khoa học hiện tại.
b. Đối tượng của chính trị học là quyền hành
Chính trị học là khoa học về quyền hành. Chính trị học nghiên cứu những hiện tượng phát sinh từ quyền hành, hay do uy quyền tạo ra, hiện tượng liên hệ đến cá nhân và đoàn thể đồng thời cũng liên quan đến một đẳng cấp quyền lực trong nội bộ các cộng đồng đông đảo và phức tạp.
Nhưng quyền hành nào? Nếu đối tượng của chính trị là quyền hành của tất cả đoàn thể thì phạm vi của khoa học chính trị rất là rộng rãi. Trái lại nếu hiểu quyền hành theo nghĩa quyền hành quốc gia, quyền hành liên hệ đến quốc gia, thì khoa học chính trị lại được thu hẹp. Theo ý kiến của nhiều nhà xã hội học thì nếu đối tượng của khoa chính trị học là quyền hành trong tất cả các đoàn thể thì khoa này sẽ giẫm chân lên nhiều địa hạt nghiên cứu khác. Bởi vậy họ tách các quyền hành mà họ gọi là «quyền hành chính trị» hay chính quyền và cho nó là đối tượng của chính trị học, còn các hình thức khác của quyền hành thuộc phạm vi các khoa học xã hội, tâm lý xã hội học v.v…
c. Đối tượng của chính trị là công việc chung
Chính trị là công việc chung của rất nhiều người trong cộng đồng xã hội. Theo một tác giả người Pháp, Jean Bodin «chính trị là việc điều khiển thẳng thắn nhiều gia đình và những cái gì chung cho các gia đình ấy, với một quyền lực chủ tể».
Quan niệm này cũng là quan niệm của Tôn Văn. Trong Tam dân chủ nghĩa, Tôn Văn nói: «Chính là việc của chúng nhân, trị là cai quản, điều khiển. Cai quản, điều khiển việc của chúng nhân là chính trị».
Sau khi xem xét qua 3 quan niệm khách quan về chính trị, ta nhận thấy ngay rằng không một quan niệm nào được xem là hoàn toàn đúng hay sai. Ý niệm quốc gia, quyền hành hay công việc chung tự nó không đủ định nghĩa chính trị.
Thật vậy, vẫn biết rằng đơn vị căn bản của thế giới chính trị là Quốc gia, nhưng hiện tượng chính trị không phải chỉ nằm trong quốc gia và có với quốc gia. Chính trị đã có trước quốc gia và vượt hẳn trên quốc gia. Ý niệm quyền hành cũng vậy. Quyền hành rất cần thiết. Nói đến chính trị không thể không nói đến quyền hành. Nhưng phạm vi quyền hành lại quá rộng rãi. Yếu tố quyền hành được đặt ra cho bất cứ một tổ chức nào chứ không riêng cho quốc gia như chúng ta đã thấy. Còn công việc chung thì ý niệm này tổng quát và trừu tượng.
Tóm lại, mỗi ý niệm – quốc gia, quyền hành, công việc chung – tự nó không đủ để định nghĩa chính trị. Nhưng họp lại 3 ý niệm trên phản ánh rõ ràng danh từ chính trị. Chính trị tức là dùng quyền hành chủ tể để điều khiển công việc chung của một số đông người họp nhau thành một tập thể mà hình thức hoàn bị nhất hiện nay là quốc gia.
V. Luật Hiến pháp và Chính trị học là những khoa học thuộc về loại mà người ta thường gọi là các khoa học về xã hội học (Les sciences sociales). Các khoa học về xã hội học gồm: xã hội học, kinh tế học, chủng tộc học, sử học, địa lý nhân văn, tâm lý xã hội học v.v.
Một sự kiện xã hội, một hiện tượng xã hội thường thường là một sự kiện hay hiện tượng toàn bộ tổng hợp mà mỗi khoa học nhìn dưới những khía cạnh khác nhau, khảo sát những phương diện khác nhau cho nên chúng ta mới có những khoa học khác nhau. Trong lúc đối tượng của cái nhìn là một, mỗi khoa học nhìn đối tượng ấy một cách khác nhau vì thế mới sinh ra sự khác biệt giữa các khoa học.
Ví dụ: trong một quốc gia, nhà sử học nhìn với một cặp mắt liên hệ đến thời gian, đến sự thăng trầm của các chế độ hay sự liên tục của một giống nòi. Nhà luật học lại nhìn những định chế pháp lý, những qui tắc, những tập tục tiêu biểu cho một trạng thái tinh thần, một lối sống. Nhà chính trị học chuyên nhìn những cơ cấu quốc gia, những động lực của cuộc đấu tranh chính trị, v.v… Tóm lại, những cái nhìn khác biệt trong lúc đối tượng vẫn là một.
Ý thức nhận xét trên, chúng ta thấy rằng luật Hiến pháp và Chính trị học là hai khoa học bổ túc cho nhau. Trong lúc luật hiến pháp nghiên cứu các qui tắc pháp lý liên hệ đến việc tổ chức và sử dụng quyền chính trị, việc thiết lập các cơ quan công quyền, việc tham dự vào việc thống trị. Chính trị học đi sâu vào các hiện tượng chính trị, nhận lấy các hiện tượng chính trị và tìm hiểu mối tương quan giữa các hiện tượng này.
Môn luật Hiến pháp sẽ được chia làm 2 phần:
Phần thứ nhất: Lý thuyết đại cương
Phần thứ nhì: Thế giới chính trị hiện đại
*
PHẦN THỨ NHẤT: LÝ THUYẾT ĐẠI CƯƠNG
THIÊN THỨ NHẤT: Những khái niệm và nguyên tắc căn bản
CHƯƠNG I: Chính quyền và Quốc gia
Mục I: QUYỀN LỰC, UY QUYỀN VÀ HIỆN TƯỢNG CHÍNH TRỊ
Mỗi người chúng ta thuộc về nhiều đoàn thể xã hội, hoặc vì chúng ta tự ý tham gia (nghiệp đoàn, hiệp hội v.v.) hoặc vì hoàn cảnh (gia đình, giai cấp xã hội v.v…).
Thuộc về một đoàn thể xã hội, tức là thực tế nhìn nhận rằng đoàn thể này có thể đòi hỏi ở chúng ta một vài hành động, một cử chỉ phù hợp với mục tiêu của đoàn thể; tức là chấp nhận rằng đoàn thể có thể bắt buộc chúng ta một vài hy sinh, một vài cố gắng đáng giá.
Thuộc về một đoàn thể xã hội, tức là mỗi người chúng ta phải thực hiện những đòi hỏi của đoàn thể, chấp nhận những hy sinh và cố gắng ấy.
Uy quyền, quyền lực của đoàn thể bắt nguồn từ đó và cũng từ đó sinh ra bổn phận của nhân viên đoàn thể.
Đoạn 1: QUYỀN LỰC VÀ QUYỀN UY
A. THẾ NÀO LÀ QUYỀN LỰC?
Quyền lực là một sự kiện xã hội. Chúng ta chỉ nhìn bất cứ một đoàn thể nào cũng có thể nhận thấy hiện tượng ấy. Vấn đề được đặt ra là thử hỏi vì sao hễ có đoàn thể xã hội là có quyền lực, tại sao không thể có đoàn thể xã hội không quyền lực?
Bất cứ một đoàn thể xã hội nào cũng có quyền lực. Đó là một điều tất yếu. Con người không phải chỉ có lương tri theo lẽ phải và có tính cách hợp quần. Sự sinh tồn của đoàn thể xã hội luôn luôn bị đe dọa bởi những say mê, khát vọng của con người và những đòi hỏi trái ngược của đoàn thể khác; vì thế mà bổn phận và giới hạn xã hội cần phải được đặt ra và đó chỉ là hậu quả tất nhiên của sự tương phản nói trên.
Các nghĩa vụ xã hội chỉ có tính cách cưỡng bách đối với con người qui phục dưới quyền lực, khi nào có sự xung đột giữa bổn phận tương phản  hoặc giữa bổn phận và những ham mê, khát vọng của họ.
Tuy nhiên quyền lực – một thực tế xã hội – không phải luôn luôn có nghĩa kìm chế, cưỡng bách đối với con người tham gia vào hoạt động của đoàn thể. Nếu sự tham gia ấy không có tính cách cưỡng bách và không đem lại những xung đột về bổn phận hay quyền lợi thì con người cảm thấy hài lòng thay vì khó chịu. Thực tế cho biết rằng con người có thể tìm thấy một nguồn vui lạ khi tận tụy phục vụ cho chính nghĩa của đoàn thể họ; vì ngay khi cùng chung hành động và cùng tuân thủ một kỷ luật, con người thực hiện những tham vọng và thỏa mãn nhu cầu, kết quả mà họ không thể đạt được nếu hành động lẻ tẻ và riêng biệt.
B. THẾ NÀO LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG UY QUYỀN?
Hiện tượng uy quyền là một hiện tượng xã hội phát sinh bất cứ trong nhóm, đoàn thể nào có tổ chức.
Thế nào là một đoàn thể có tổ chức? Trong một đoàn thể có tổ chức, giữa nhân viên có sự liên kết, hàn gắn với nhau bởi một lý tưởng, một mục đích, một hành động chung. Kinh nghiệm xã hội, chính trị cho chúng ta biết rằng ít khi mà chúng ta thấy một nhóm người có thể cùng hành động chung nhau mà không chia sẻ phận sự, mà không có một ý tưởng chỉ đạo định nghĩa rõ ràng ý nghĩa của sự cố gắng và phân chia cố gắng ấy.
Trong một đoàn thể có tổ chức, có chia ra cấp bậc vì không thể có một tổ chức nào mà không có sự phân chia chức vụ, một trật tự ấn định bởi một hệ thống của những người có quyền lực.
Sự phân chia đẳng cấp ấy, sự hiện diện của một uy quyền nghĩa là của một người có quyền quyết định cho kẻ khác, sự kiện ấy chính là hiện tượng uy quyền.
Có hiện tượng uy quyền, khi nào có một sự liên lạc phục tùng, bất bình đẳng giữa những đơn vị của một đoàn thể có tổ chức. Trong một hoàn cảnh mà một nhóm người bắt buộc phải làm sao cho hành động hay thái độ của mình phù hợp với ý chí của kẻ khác. Nói đến uy quyền là phải nghĩ ngay đến mối tương quan giữa cá nhân, mối tương quan trên căn bản bất bình đẳng, là nghĩ ngay đến ưu thế của ý chí kẻ chỉ huy.
Hiện tượng uy quyền có bất cứ trong một tổ chức nào: quân đội, dân chính, nhà trường, chính đảng, tổ chức sinh viên.
C. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA HIỆN TƯỢNG UY QUYỀN
Hiện tượng uy quyền rất phức tạp, nhiều vấn đề được đặt ra liên hệ đến đẳng cấp, tranh chấp, sử dụng uy quyền.
1) Vấn đề đẳng cấp về uy quyền
Người chỉ huy kẻ khác, chính họ phải tuân lệnh của cấp trên. Và ngược lại người nắm quyền lãnh đạo tối cao không bao giờ sử dụng quyền hành một cách trực tiếp. Giữa những mệnh lệnh bậc nhất và ý chí tuân theo của cấp dưới luôn luôn có những bậc trung gian có thể làm đảo lộn sự thi hành mệnh lệnh.
2) Vấn đề tranh chấp quyền uy
Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt – như quân đội hay tôn giáo – mỗi người chúng ta tham gia rất nhiều đoàn thể tùy theo hoạt động hay sở thích của chúng ta. Những đoàn thể ấy có tổ chức nghĩa là có hệ thống; đẳng cấp uy quyền.
Tham gia nhiều đoàn thể tổ chức, có đẳng cấp nghĩa là có thể xẩy ra cho mỗi người chúng ta những cuộc tranh chấp về uy quyền. Rất dễ hiểu vì một người muốn tham gia nhiều đoàn thể thì chắc chắn rằng nhiều mệnh lệnh bắt nguồn khác nhau có thể chạm nhau.
3) Vấn đề sử dụng uy quyền chỉ huy
Cần phải nhận định rằng ít khi cấp chỉ huy quyết định một cách hoàn toàn độc đoán. Ít khi mà một người có uy quyền có thể dùng uy quyền của mình để bắt buộc kẻ khác phải phục tùng bất cứ lúc nào, cái gì hay cách gì. Thường thường những kẻ sử dụng uy quyền chỉ được vâng lời khi mà uy quyền ấy được nhìn nhận. Uy quyền không phải luôn luôn được nhìn nhận. Trái lại uy quyền luôn luôn được đặt lại. Uy quyền chỉ được nhìn nhận khi nào nó được chứng minh.
Vậy công việc khởi thảo, dự bị những quyết định của cấp chỉ huy luôn luôn – lẽ tất nhiên trong một giới hạn nào – có sự hợp tác của những kẻ bắt buộc phải thi hành hay phục tùng những mệnh lệnh ấy.
Đoạn 2: HIỆN TƯỢNG CHÍNH TRỊ
Trong những đoàn thể, có một đoàn thể đặc biệt, có một tầm quan trọng đặc biệt.
A. Đó là cộng đồng chính trị. Là một đoàn thể khác hẳn các đoàn thể có tổ chức, có hệ thống đẳng cấp khác về hai phương diện: tính cách tối cao tính cách bao quát.
Tối cao:
- Quyền lực do Nhà nước ủy nhiệm
- Nhà nước được quyền sử dụng lực lượng vật chất
- Tất cả các quyền lực phục tùng uy quyền Nhà nước
Bao quát:
- Nhà nước có xu hướng liên hệ đến tất cả hình thức của hoạt động con người (tất cả những đoàn thể ngoài nhà nước, chỉ họp nhân viên của mình cho một mục đích nhất định, giới hạn, trong một phạm vi liên hệ đến một phần nào hoài bão của họ).
Chúng ta có thể không tham gia vào một đoàn thể, không thuộc một tổ chức, nhưng chúng ta không thể không thuộc một quốc gia.
Tóm lại, cộng đồng chính trị là một tổ chức hết sức đặc biệt. Đặc biệt vì tất cả con người có bổn phận, bắt buộc là công dân của một quốc gia nào đó. Quốc gia ấy, mà nhà nước tượng trưng về mặt pháp lý, là một cộng đồng chính trị.
Bởi thế những hiện tượng uy quyền liên hệ đến quyền lực của Nhà nước – cơ quan chính trị – và công dân là một loại hiện tượng uy quyền đặc biệt khác hẳn uy quyền trong tổ chức khác. Đó là hiện tượng chính trị.
Hiện tượng chính trị: Là hiện tượng uy quyền trong khung cảnh của một cộng đồng chính trị. hiện tượng chính trị (H.T.C.T) biểu lộ dưới hình thức nào?
B. Những hình thức biểu hiện của hiện tượng chính trị
Hành vi pháp lý: Một đạo luật, hành vi chính trị là một hình thức sử dụng quyền lực Nhà nước, và đồng thời là một hiện tượng pháp lý. Đạo luật – các bạn cũng thừa hiểu là kết tinh của một thủ tục nhất định, theo những qui tắc nhất định.
Một quyết định của một Hội đồng xã, một quyết định của Tỉnh trưởng, một biểu quyết của Quốc hội, những quyết định của Chính phủ, tất cả đều là những quyết định công khai, hành vi chính trị. Tất cả là hiện tượng chính trị dưới hình thức hành vi pháp lý. (Sắc luật đặt ngoài vòng pháp luật tư nhân đảng phái, hoạt động tuyên truyền cho chủ trương trung lập.)
Hành vi chính trị: Có những hiện tượng chính trị biểu hiện dưới một hình thức không phải hình thức của một hành vi pháp lý, mà trái lại dưới một hình thức hoàn toàn, trực tiếp một hành vi chính trị.
Một cuộc biểu tình, cuộc mít tinh, những hành vi như phát truyền đơn, hô hào cổ võ chống trung lập, đả đảo hay hoan hô một nhân vật hay cơ quan nào, tất cả những sự kiện ấy rõ ràng đều có một đối tượng, một mục tiêu – là thay đổi điều kiện tham gia hay sử dụng chủ quyền chính trị.
Những hành vi chính trị ấy – cá nhân hay đoàn thể – chúng ta nhận ngay là những hành vi nhằm can thiệp vào mối tương quan của uy quyền nhà nước.
Phát biểu ý kiến: Dư luận là một cái lò nung đúc, phác họa và thay đổi những động lực của cuộc sinh hoạt chính trị, những động lực ấy đụng chạm nhau, hàn gắn nhau để trở thành thái độ chính trị.
Hành vi chính trị của cá nhân hay một đoàn thể thường thường phản ảnh những ý tưởng, hay chính kiến của họ và chính kiến hay ý tưởng ấy tự nó bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố phức tạp, nhiều ảnh hưởng của cuộc sống. Ảnh hưởng hay yếu tố ấy có tác động đối với cá nhân hoặc đoàn thể.
Tại sao lại cho rằng ý kiến là một hiện tượng chính trị, tại sao lại nhấn mạnh tầm quan trọng của phát biểu ý kiến?
Ý kiến của con người chỉ là một ý kiến. Phát biểu một ý kiến không có nghĩa là ý kiến ấy đương nhiên thay đổi một phần nào điều kiện phân phát hay sử dụng quyền lực chính trị. Có những ý kiến – dù rằng được phát biểu – nhưng rồi trong chốc lát tan ra mây khói. Vậy ý kiến không phải luôn luôn và lúc nào cũng có tác dụng chính trị.
Nhưng cần phải nhận định rằng có rất nhiều trường hợp mà ý kiến ấn định một hành vi. Trước khi tôi biểu quyết về một điều gì, tham gia một cuộc biểu tình, ghi tên vào một đoàn thể chính trị, tôi có ý kiến về sự kiện ấy. Ý kiến có tác dụng chính trị là khi nào ý kiến có thể thay đổi hẳn ý kiến và thái độ của kẻ khác.
Một ý kiến không được phát biểu không có một ý nghĩa chính trị gì. Nhưng một ý kiến được phát biểu có thể thay đổi cục diện chính trị, và vì thế là một hiện tượng chính trị quan trọng.
Ngoài những hình thức nói trên, chúng ta còn tìm thấy những hiện tượng chính trị không có tính cách chính trị tự bản chất nó mà chỉ là vì những hậu quả gián tiếp trong cuộc sinh hoạt chính trị.
VẤN ĐỀ KHẢO CỨU NHỮNG HIỆN TƯỢNG CHÍNH TRỊ MỘT CÁCH KHOA HỌC
Thế nào là nghiên cứu một cách khoa học?
Tìm hiểu một cách khoa học, khảo cứu một cách khoa học không có nghĩa là chúng ta đo lường hiện tượng chính trị, sự kiện chính trị một cách tỉ mỉ, từng ly từng phân. Nó cũng không có nghĩa là chúng ta phải theo sát phương pháp của khoa vật lý học. Hiện tượng chính trị và hiện tượng xã hội nói chung là hiện tượng hết sức phức tạp mà yếu tố con người, yếu tố tâm lý chiếm phần quan trọng.
Nói đến nghiên cứu khoa học là chúng ta muốn nói đến vấn đề khách quan trong việc nghiên cứu và sưu tầm. Có nghĩa là chúng ta nên xem hiện tượng chính trị là những sự kiện tự đặt mình ở một vị trí ngoài để nhìn vào sự kiện ấy, và quan niệm một cách rõ ràng rằng sự kiện trước chúng ta là sự kiện chính trị nghĩa là mối tương quan về uy quyền trong một khung cảnh chính trị, mối tương quan giữa cá nhân và Nhà nước hoặc giữa cơ quan công quyền.
Cần phải nhận định rõ là chúng ta đứng trước một sự kiện chính trị, một mối tương quan chính trị. Vì mối tương quan chính trị khác nhiều mối tương quan pháp lý. Trong cuộc sinh hoạt chính trị, có rất nhiều trường hợp mà kẻ có quyền trên mặt pháp lý không nắm quyền thật sự, có rất nhiều trường hợp mà kẻ có thể sử dụng quyền chỉ huy không phải chính là người có quyền trên mặt pháp lý.
Vậy vấn đề lý thú đối với chúng ta trong việc sưu tầm khoa học là thử hỏi ai nắm chủ quyền, sự thật là thế nào và vì lý do gì.
Sự kiện chính trị ấy, hiện tượng uy quyền, hiện tượng chính trị ấy, muốn quan sát một cách khách quan và khoa học, không phải là vấn đề dễ làm.
Không phải chỉ muốn, chỉ nói rằng chúng ta nên có một thái độ khách quan rồi đương nhiên làm được. Mỗi người chúng ta được giáo huấn riêng biệt; có những sở thích không giống nhau, người thì nghiêng về chế độ chính trị này, kẻ khác lại thích một quyết định chính trị như thế kia v.v… Những sự kiện ấy không thể nào mà không có ảnh hưởng đến cách làm việc của chúng ta và nhất là ảnh hưởng đến thái độ khách quan của chúng ta trước hiện tượng chính trị.
Khách quan  tức đứng lùi lại để nhìn đối tượng, là chấp nhận – dù đối với những sự việc mật thiết liên quan đến mình – đứng vào vị trí kẻ khác: khách quan tức là không những phán xét theo quan điểm của mình mà còn để ý đến quan điểm của kẻ khác và quyền lợi chung của đoàn thể.
Vậy khó mà nói rằng chúng ta nên có một thái độ hoàn toàn khách quan, nhưng phải quả quyết rằng trong việc sưu tầm, nghiên cứu hiện tượng chính trị, chúng ta nên tiến lần đến một thái độ khách quan, rằng đó là một cố gắng không ngừng.
Mục II: KHÁI NIỆM CHÍNH QUYỀN
Đoạn 1: CHÍNH QUYỀN VÀ CỘNG ĐỒNG CHÍNH TRỊ
Đoạn 2: Ý NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN
Đoạn 3: NHỮNG HÌNH THỨC CỦA CHÍNH QUYỀN
Quyền lực xã hội mà chúng ta đã tìm thấy trong bất cứ tổ chức nào được thể hiện qua nhiều hình thức, nhất là trong một xã hội với một nền văn minh dựa trên sự phân công và sự chuyên môn chức vụ xã hội.
Thần quyền, giáo quyền, quyền kinh tế v.v…, đó là những thí dụ cụ thể. Vì chính quyền cũng chỉ là một hình thức riêng biệt của quyền lực xã hội ấy.
Chính quyền – hay là quyền lực về chính trị – là một loại quyền lực xã hội riêng biệt trong một tổ chức thường được gọi là cộng đồng chính trị. Cộng đồng chính trị là nền tảng của chính quyền.
Đoạn 1: CHÍNH QUYỀN VÀ CỘNG ĐỒNG CHÍNH TRỊ
A. Cộng đồng chính trị nhìn dưới khía cạnh lịch sử, là một toàn bộ xã hội gồm một số đông đoàn thể cùng xen lẫn nhau nhưng không hoàn toàn hỗn hợp. Cộng đồng chính trị là một xã hội toàn diện.
Thật vậy, ngoại trừ trường hợp rất ít của một thị tộc cô lập, giữa người với người, có vô số mối tương quan xã hội khác hẳn, và mọi người – vì thế, thuộc về một số đông đoàn thể. Những đoàn thể này, mặc dù khác nhau về vai trò cũng như về cơ cấu, chung qui gồm một số người tương tự. Mỗi đoàn thể không thể tự túc, tự sống riêng biệt vì hoạt động của nó có tính cách bổ sung. Bởi vậy, giữa đoàn thể có rất nhiều mối tương quan – tiêu cực hoặc tích cực – hỗn hợp trong một hệ thống phức tạp.
Tuy nhiên những đoàn thể xã hội không thể tiến triển và ở trong tình trạng cộng đồng sinh hoạt nếu không có trật tự và thống nhất trong sự giao thiệp hỗ tương.
Chính cái xã hội toàn diện đã được cấu tạo bởi lịch sử và giới hạn trong một địa dư nhất định và bao gồm các đoàn thể khác biệt bổ sung nhau, chính cái xã hội toàn diện ấy là cộng đồng chính trị.
Và vì nhu cầu kết hợp đoàn thể và phối hợp hành động hỗ tương mà nẩy sinh ra một quyền lực đặc biệt: đó là chính quyền.
B. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA CỘNG ĐỒNG CHÍNH TRỊ
Cộng đồng chính trị là một xã hội đặc biệt vì nó là:
  • Một xã hội toàn diện
  • Một xã hội có tổ chức
Cộng đồng chính trị, trước nhất là một xã hội toàn diện, nghĩa là một tổng thể sai biệt, bao gồm số đoàn thể ở trong một tình trạng cộng đồng hoạt động.
Cộng đồng chính trị là sản phẩm của nền văn minh mà sự tiến triển được gắn liền với nguyên tắc phân công và tính cách chuyên môn của chức vụ xã hội.
Là một công dân, tức là tham dự vào cộng đồng chính trị qua sự trung gian của các đoàn thể. Và như chúng ta đã biết con người là một phần tử của nhiều đoàn thể và chính các đoàn thể tạo thành cộng đồng chính trị.
Sự tham gia vào cộng đồng chính trị không có tính cách trực tiếp. Con người chỉ ý thức là một công dân và hành động như thế qua gia đình, mái trường, hiệp hội, chính đảng v.v… Chính những môi giới này đóng một vai trò quan trọng.
Nếu chúng ta không kể những môi giới này, công dân không còn là con người cụ thể, mà trở thành cá nhân trừu tượng, một phần tử phi nhân cách trong quần chúng. Mọi xóa bỏ những đoàn thể trung gian giữa chính quyền và cá nhân luôn luôn là một sự thương tổn con người.
Đó là đặc điểm thứ nhất: cộng đồng chính trị là một tổng hợp phức tạp toàn diện.
C. BA HIỆN TƯỢNG TRONG MỘT XÃ HỘI TOÀN DIỆN
1. Những tương quan xã hội
Tương quan xã hội ở đây là tương quan giữa người và đoàn thể. Tương quan xã hội là những yếu tố có tính cách động lực, những động cơ của mọi biến cải.
Thật vậy, nhất nhất mọi công tác, mọi hành động gì của con người hay của đoàn thể đều thay đổi hoặc cải biến hoàn cảnh của họ. Ngược lại mọi thay đổi cải biến hoàn cảnh khiến họ phải hành động và đặt cho họ nhiều vấn đề mới mẻ.
Bởi vậy, nhìn dưới khía cạnh của một sự tiến triển lịch sử, nền văn minh chung qui chỉ là kết luận của tất cả những hoạt động hỗ tương ấy.
Những tương quan xã hội cấu thành hạ tầng cơ sở của một xã hội.
2. Những đoàn thể xã hội
Thế nào là một đoàn thể xã hội? Đoàn thể không phải là một nhóm người. Sự kiện xã hội của đoàn thể chỉ xuất hiện khi nào những cá nhân – hay những nhóm nhỏ liên kết lại bởi những mối liên hệ có tính cách hỗ tương, bổ sung hoặc tương phản.
Đoàn thể xã hội ở đây cần phải được xem là những mối liên kết, những “nút dây” trong hệ thống phức tạp của mối tương quan xã hội hơn là những cá nhân góp nhặt lại.
Một đoàn thể là tổng hợp của một số tương quan xã hội nhất định giữa con người hoặc giữa những nhóm trong ấy những tương quan tích cực chiếm ưu thế. Những mối tương quan này có thể tạm thời hay vĩnh viễn, tự phát hay có tổ chức. Một đám đông là một đoàn thể, nhưng là một đoàn thể chỉ gồm những tương quan xã hội tạm thời và tự phát. Một hiệp hội, trái lại, là một đoàn thể cấu thành bởi những tương quan xã hội lâu dài và có tổ chức.
3. Những định chế xã hội
Định chế xã hội là tất cả hệ thống về nguyên tắc, nghi lễ, phong tục cũng như truyền thống, hệ thống ấn định việc tổ chức các cơ cấu xã hội.
Định chế xã hội – nói một cách khác, là thượng tầng cấu tạo về mặt ý thức hệ, pháp lý cũng như giáo lý v.v… Sự hiện diện của định chế xã hội là một điều hết sức cần thiết để duy trì một trật tự trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nếu không những cơ cấu sẽ sụp đổ ngay hoặc tan rã lần đi.
Nói tóm lại, định chế là một cơ cấu xã hội được chỉnh đốn (có ngăn nắp, thứ tự) để thi hành một chức vụ nhất định, theo những qui tắc được ấn định, hoàn toàn độc lập với ý chí của nhân viên đoàn thể và với những tương quan xã hội tự phát của họ.
Phân tích như thế cho chúng ta biết rằng định chế là những yếu tố trật tự xã hội trong lúc đó những tương quan xã hội đắc lực và bộc phát – tương quan xã hội mà chúng ta gọi là hạ tầng cơ sở – là những yếu tố tiến bộ xã hội.
Mọi cộng đồng chính trị cần phải có hai yếu tố nói trên vì chính nó là điều kiện sinh tồn. Thật vậy, mọi cộng đồng chính trị phải có một trật tự tối thiểu nếu không tình trạng hỗn loạn sẽ đưa đến tan vỡ. Vì thế mà không thể có cộng đồng chính trị không có định chế. Đồng thời một cộng đồng chính trị không thể sống và tiến triển nếu không có gì thúc đẩy để tiến bộ đến mức tối đa. Cộng đồng chính trị sẽ ở trong tình trạng suy đồi nếu những tương quan xã hội không được kích thích và tự do tối cần của đoàn thể không được đảm bảo.
Đoạn 2: Ý NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN
A. Ý NIỆM CHÍNH QUYỀN
Chính quyền tức là mối tương quan giữa người và người trong một cộng đồng chính trị. Mệnh đề này – vừa nghe không mấy gì quan trọng – thật ra chứa đựng một chiến thắng vẻ vang, quí báu – và đồng thời luôn luôn bị đe dọa – của nền văn minh cận đại. Vì chính quyền đã được quan niệm và hành xử trong bao thế kỷ như mối tương quan giữa một người và những người khác, những người này được xem là dụng cụ hay đồng hóa cùng sự vật.
Vì thế mà chúng ta phải luôn luôn nhắc mãi rằng trong cộng đồng chính trị chỉ có con người chứ không có nô lệ. Nói như thế có nghĩa rằng mối tương quan căn bản của chính quyền chính là mối tương quan giữa người và người.
Hành vi thay đổi con người bởi con người có tính cách chính trị khi nào nó nhằm những mục tiêu nhất định và dùng những phương tiện thích ứng cho mục tiêu ấy. Khác với giáo quyền hay quyền lực về tinh thần, chính quyền được định nghĩa bởi mục tiêu và kỹ thuật của nó.
Quyền lực có tính cách chính trị khi nào quyền lực ấy đưa những con người cùng chung sống trong một lãnh thổ nhất định đến những mục tiêu tập thể có tính cách nhất thời lịch sử.
Thật vậy:
  • Chính quyền được hành xử trước hết trong một lãnh vực địa dư nhất định. Chúng ta không nên sao lãng yếu tố không gian. Là khung cảnh của chính trị, không gian đồng thời cũng là một trong những phương tiện của chính trị. Vì chính trị, lịch sử và cụ thể – chỉ phát triển bởi không gian và trong không gian.
  • Chính quyền giúp quốc dân bày tỏ và thực hiện một cách sống chung và đặt những phương tiện để quốc dân – với tính cách một đoàn thể quốc gia – đóng vai trò tích cực và hiệu nghiệm trong sự diễn tiến của đấu tranh và hợp tác giữa các quốc gia.
  • Mục tiêu của chính quyền luôn luôn có tính cách lịch sử và nhất thời. Chính trị không bao giờ mưu cầu vĩnh phúc cho con người, mà trái lại chỉ nhằm diễn đạt và thực hiện mục tiêu của tập thể – những mục tiêu thuộc về lịch sử này và ở trên trái đất này.
Những phương tiện của chính quyền
Chính quyền hành động qua sự ảnh hưởng, sự uốn nắn, sự bắt buộc.
  • Ảnh hưởng: Sự thuyết phục hoặc làm duyên. Thuyết phục là hành động của trí khôn chống trí khôn. Làm duyên bao trùm những cái gì có tính cách mỹ thuật trong hoạt động của con người.
  • Sự uốn nắn: Hành động của con người vào con người qua sự trung gian của sự vật. Mỗi người chúng ta đều được đặt vào một vị trí nhất định, chính giữa một khung cảnh nhất định và chịu hướng dẫn, uốn nắn bởi vũ trụ của sự vật và con người, sự vật và con người mà chính quyền có thể ảnh hưởng trực tiếp.
  • Sự cưỡng chế (có tính cách vật chất): không có một chính quyền nào có thể bỏ qua việc cưỡng chế.
B. TÍNH CÁCH TỐI CAO CỦA CHÍNH QUYỀN
Như đã hiểu, nếu chính quyền là một quyền lực xã hội riêng biệt cho cộng đồng chính trị và của cộng đồng chính trị – như đã biết là những xã hội toàn diện khác hẳn những đơn vị xã hội khác – người ta nhận thấy ngay rằng chính quyền trội hẳn, vượt hẳn các quyền lực xã hội khác. Chính quyền điều khiển toàn thể cộng đồng chính trị. Và nhiệm vụ của chính quyền là điều động, phối hợp những mối tương quan của vô số đoàn thể khác biệt trong cộng đồng chính trị, điều động và phối hợp hầu giữ được tình trạng cộng đồng sinh hoạt đồng thời đưa xã hội tiến lên theo nhịp cầu lịch sử.
Nói như thế, nhìn nhận vai trò ấy của chính quyền, tức là khẳng định tính cách tối cao của chính quyền.
Chính quyền có tính cách tối cao tức là chính quyền độc lập với mọi quyền lực xã hội nào ngoài cộng đồng chính trị và chính quyền có ưu thế trên mọi quyền lực xã hội trong cộng đồng chính trị.
Khái niệm chính quyền tối cao đã xuất hiện từ đời Thượng cổ và nhất là trong các lý thuyết chính trị vào khoảng thế kỷ XVI và XVII. Một trong những lý thuyết chính trị nổi tiếng nhất về chính quyền tối cao là của Jean Bodin khi ông định nghĩa “Chính trị là việc điều khiển thẳng thắn nhiều gia đình và những cái gì chung cho các gia đình ấy, với một quyền lực chủ tế.” Và chúng ta có thể nói rằng khái niệm chính quyền chủ tế này đã chế ngự tư tưởng chính trị từ thế kỷ XVIII đến nay.
Tuy nhiên xác nhận tính cách tối cao của chính quyền không có nghĩa là khẳng định rằng chính quyền là tuyệt đối hay độc đoán. Bất cứ quyền lực nào cũng bị giới hạn bởi những phản ứng, kháng cự của hoàn cảnh.
C. VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN: TRẬT TỰ VÀ TIẾN BỘ
Cộng đồng chính trị là một xã hội toàn diện – gồm những yếu tố trật tự xã hội mà chúng ta gọi là định chế và mối tương quan xã hội.
Chính quyền là quyền lực đặc biệt, riêng biệt cho cộng đồng chính trị. Bởi thế vai trò của chính quyền phải là duy trì một trật tự tối thiểu và hướng đến một tiến bộ tối đa.
Thật vậy, trong một cộng đồng chính trị, chính quyền có bổn phận bảo vệ và duy trì những định chế được thiết lập, và nhất là áp dụng luật lệ hầu bảo đảm cho công dân cùng đoàn thể những điều kiện tối thiểu để hoạt động và phát triển. Điều kiện tối thiểu ấy là: một hoàn cảnh xã hội tương đối ổn định, liên tục và có an ninh. Không điều kiện ấy – nghĩa là không một trật tự xã hội thì không thể nào làm việc được. Và như thế thì không thể có một mối tương quan xã hội tích cực, không thể có văn minh được.
Tuy nhiên, cần phải nhận thức ngay là không có một trật tự xã hội nào hoàn toàn và vĩnh viễn, vì nếu định chế tồn tại thì mối tương quan xã hội thay đổi luôn. Trật tự được thiết lập luôn luôn là trật tự của một tình trạng văn minh nhất định. Những tiến bộ của văn minh càng phát triển bao nhiêu, thì những qui tắc cùng cơ cấu xã hội càng không hợp với thực tế của tương quan xã hội bấy nhiêu. Hậu quả là một tình trạng bất quân bình giữa hạ tầng và thượng tầng cơ sở trong một cộng đồng chính trị. Bởi thế cho nên, bất cứ một trật tự nào được thiết lập luôn luôn không ít thì nhiều là một “vô trật tự được thiết lập”.
Định chế cần phải không ngừng được chỉnh đốn, đổi mới hoặc đổi thay. Và chỉ có chính quyền mới đầy đủ phương tiện cần thiết để đảm nhiệm vai trò cải tổ ấy.
Tóm lại, một trật tự xã hội thật sự phải là một công trình làm đi làm lại mãi trong thời gian chứ không phải một dữ kiện sẵn có và như thế tồn tại mãi.
Đoạn 3: NHỮNG HÌNH THỨC CỦA CHÍNH QUYỀN
Lịch sử đã chứng minh rằng – trong bất cứ một cộng đồng chính trị nào cũng có một sự biến chuyển về hình thái của chính quyền. Sự biến chuyển ấy được thể hiện trong giai đoạn dài hay ngắn, và dưới hai hình thức đặc biệt: chính quyền có tính cách cá nhân và chính quyền được định chế hóa.
A. CHÍNH QUYỀN CÓ TÍNH CÁCH CÁ NHÂN
1. Đặc tính
Những cơ cấu hình thức chính quyền này thay đổi tùy cộng đồng chính trị và, trong mỗi cộng đồng chính trị tùy theo nhịp độ lịch sử của nó. Tuy nhiên, người ta có thể quả quyết rằng đặc tính chung của các chính quyền có tính cách cá nhân là: chính quyền chiếm bởi một người hay một nhóm người, được hành xử và xem như một quyền sở hữu. Chính quyền ở đây – thuộc về một cá nhân hay một số người – vì những người này có những đức tính hay đặc quyền mà kẻ khác không có: ví dụ như uy quyền tôn giáo, tài binh đao, quyền sở hữu về đất đai v.v…
Có chính quyền là làm chủ chính quyền, là sử dụng như một vật sở hữu. Ai chiếm được chính quyền có thể sử dụng tùy ý thích không phải trả lời cho ai, không cần phải theo thủ tục nào, qui tắc hay nguyên tắc nào. Vì chính quyền là của riêng tư. Vì con người ở cương vị chính quyền không đại diện cho ai, không được ai đề cử và chính họ cũng nhận thức rằng họ nắm chính quyền không phải để bảo vệ ai hay sử dụng cho ai, mà trái lại cho chính quyền lợi của họ.
2. Hậu quả
Qua những đặc tính vừa kể trên của chính quyền cá nhân, chúng ta nhận ngay rằng chính quyền cá nhân là một chính quyền bất ổn định. Thật vậy, nếu chính quyền có thể lọt vào tay tất cả những ai có những cá tính đặc biệt hay những tước vị thì bất cứ ai cũng có thể đòi hỏi chủ quyền khi họ chứng minh được những đức tính hay tước vị đặc biệt ấy.
Bất cứ ai có một chút lực lượng hay uy tín sẽ đòi hỏi chính quyền và giật lấy chính quyền ở tay người khác. Như thế, hậu quả rất dễ đoán trước và lịch sử cũng đã chứng minh hậu quả ấy: chính quyền trở thành một “vật” để tranh giành nhau. Cướp bóc, cưỡng đoạt để làm giàu, chinh phục quân sự để mở rộng đất đai, khủng bố để chứng tỏ sức mạnh của mình v.v… chung qui đó là những phương tiện chính để chiếm chính quyền. Lịch sử thời Trung cổ đã chứng kiến những cuộc tranh giành ghê tởm ấy.
Vì là một chính quyền bất ổn định, chính quyền cá nhân dĩ nhiên được hành xử một cách bất liên tục. Chính quyền từ tay người này qua người khác tùy theo thời cơ, tùy theo những chiến thắng nhất thời. Và những người liên tiếp đoạt chính quyền sẽ thống trị tùy theo ý riêng vì lẽ giản dị là không một định chế nào bắt buộc họ phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Tóm lại, bởi những lý do trên, chính quyền cá nhân là một hình thức chính quyền dễ bị ảnh hưởng bởi tính hiếu kỳ hay những xúc động tình cảm của kẻ nắm chính quyền. Những quyết định quan trọng của họ không còn thể hiện được những đòi hỏi của trật tự và tiến bộ mà trái lại chỉ là kết quả của một trò chơi tham vọng, âm mưu hay sự tương phản giữa quyền lợi riêng tư.
Chính quyền cá nhân rất là tai hại cho sự thống nhất sự chặt chẽ của đoàn thể xã hội cùng sự thịnh vượng của cộng đồng chính trị.
Bởi thế cho nên đến một giai đoạn nào đó trong cuộc tiến triển của nền văn minh, hình thức chính quyền cá nhân đã trở thành thiếu sót, không đáp ứng với nhu cầu lịch sử. Sự kiện này, những lý thuyết gia cùng những nhà chính trị đều ý thức và vấn đề đặt ra là tìm phương thức để tổ chức một bộ máy chính quyền tương xứng với sự tiến bộ của nền văn minh. Và những suy luận đã đưa đến việc định chế hóa chính quyền.
B. CHÍNH QUYỀN ĐƯỢC ĐỊNH CHẾ HÓA
1. Nguyên nhân
Để đáp ứng nhu cầu hàng ngày càng gia tăng và hay thay đổi trong những xã hội dân số đông đúc và đất đai rộng lớn, chính quyền cần phải tạo ra những cơ cấu chuyên môn (hành chính, tư pháp, quân đội v.v…) và chỉ qua sự trung gian của những cơ cấu này mới hoàn toàn làm tròn sứ mạng được.
Trong những quốc gia càng văn minh và rộng lớn bao nhiêu, thì những cơ cấu chuyên môn này càng phức tạp và bành trướng bấy nhiêu.
“Bộ máy chính quyền” khổng lồ này, với số nhân viên đông đảo, với những cơ sở vật chất hay kỹ thuật to lớn, không thể điều hành được nếu không có sự ổn định, một sự liên lạc cùng một sự liên tục tối thiểu. Từ nhu cầu lịch sử này, phát sinh ra lý tưởng định chế hóa chính quyền.
2. Đặc tính
Một chính quyền được định chế hóa có nghĩa là hình thức chính quyền đặt trong một khuôn khổ nhất định, dựa trên những nguyên tắc pháp lý để có một tính cách chính đáng.
Chính quyền cá nhân là một chính quyền theo thực tế, tùy thuộc bất cứ ai chiếm được nó. Trái lại, chính quyền được định chế hóa là một chính quyền theo pháp lý. Những người nắm chính quyền này không còn là sản chủ nữa với tự do sử dụng theo ý riêng mình, mà trái lại, phải chiếu theo những định chế sẵn có.
Một chính quyền được định chế hóa dựa trên một sự phân chia giữa uy quyền cá nhân và hành xử uy quyền. Nghĩa là chính quyền được chuyển từ cá nhân của những người thống trị đến một định chế – thường thường là định chế Nhà nước. Chính định chế Nhà nước mới là chủ của chính quyền. Như thế không có nghĩa là cá nhân hay những kẻ thống trị không còn một vai trò quan trọng. Nhưng thay vì họ chiếm chính quyền và hành xử chính quyền như một đặc quyền riêng tư thì họ chiếm chính quyền theo những nguyên tắc được ấn định và hành xử chính quyền với tư cách nhân viên thừa hành bởi một uy quyền tối thượng.
Bởi thế cho nên, danh từ chức vụ thường được dùng để ám chỉ hoạt động của những người cầm quyền.
Với một chính quyền được định chế hóa, từ nay uy quyền của những kẻ cầm quyền không cần phải chứng minh bởi những đặc tính hay biệt tài của cá nhân họ vì họ đại diện và hành xử một uy quyền của một định chế. Và sự liên tục cũng như sự vĩnh cửu của chủ quyền được bảo đảm mặc dù có sự thay đổi liên hệ đến nhân vật nắm quyền.
Tóm lại, quan niệm một chính quyền được định chế hóa, tức là ý thức rằng cộng đồng chính trị là một thực tại và có một giá trị trên hẳn mọi cá nhân, luôn cả cá nhân nắm quyền.
Mục III: QUỐC GIA
Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA
Đoạn 2: NHỮNG ĐẶC TÍNH PHÁP LÝ CỦA QUỐC GIA
Đoạn 3: NHỮNG HÌNH THỂ CỦA QUỐC GIA
Quốc gia là hiện tượng chính trị quan trọng nhất. Vẫn biết quốc gia không phải là tất cả chính trị. Trước khi có quốc gia, đã có rồi một cuộc sinh hoạt chính trị. Hơn nữa, có những hiện tượng chính trị vượt hẳn khung cảnh quốc gia. Tuy nhiên để hiểu chính trị cần phải đi từ khái niệm quốc gia vì quốc gia là trọng tâm cuộc sinh hoạt chính trị.
Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA
  • Khái niệm quốc gia về phương diện xã hội
  • Khái niệm quốc gia về phương diện pháp lý
  • Quốc gia, một chính quyền được định chế hóa
A. VỀ PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI
Dưới mắt sử gia và các nhà xã hội học, quốc gia được cấu tạo bởi 3 yếu tố: một dân tộc, một lãnh thổ và một chính quyền.
Một dân tộc
Danh từ dân tộc ám chỉ một đoàn thể đông đúc bao gồm một số người cùng chung sống với nhau, với một tình đoàn kết chặt chẽ thường xuyên qua những sự kiện thực tế mà chúng ta thường thấy đa số quốc gia: một chủng tộc, một tôn giáo, một ngôn ngữ.
Song song với khía cạnh có thể nói là vật chất của danh từ dân tộc, chúng ta cần phải ý thức khía cạnh tinh thần: danh từ dân tộc gợi cho ta ý niệm một số người đã cùng có một dĩ vãng nghĩa là đã cùng có một lý tưởng và một ý chí muốn sống chung, một cách sống riêng biệt.
Một lãnh thổ
Khi các bạn nghe các chính trị gia hô hào nào là: từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mâu… hay là trên dải giang sơn gấm vóc này v.v… đó là ám chỉ lãnh thổ. Lãnh thổ là một dải đất có bờ cõi, biên thùy mà trên đó dân tộc đã và đang cùng chung sống. Không thể có một quốc gia mà không có lãnh thổ. Trường hợp điển hình là nước Do Thái. Dân Do Thái sống rải rác trên thế giới và chỉ thiết lập quốc gia sau khi chiếm được mảnh đất ở Palestine.
Một chính thể
Ở đây là một chế độ chính trị tức là hình thức và cơ cấu tổ chức chính quyền. Như chúng ta đã có dịp nói đến khi đề cập hiện tượng chính trị, khác hẳn các đoàn thể xã hội, tổ chức quốc gia có hai đặc tính: tính cách tối cao và bao quát. Chính những đặc tính ấy đưa đến việc phân công rõ rệt giữa nhà cầm quyền với độc quyền sử dụng lực lượng cảnh bị và quân sự mà những người bị trị bắt buộc phải phục tùng uy quyền quốc gia.
Một dân tộc, một lãnh thổ, một chính thể, đó là 3 yếu tố cấu tạo quốc gia. Tuy nhiên, khi phân tích như thế chúng ta không nên quên rằng:
  • Hình thức quốc gia không phải luôn luôn đã có trong lịch sử. Trước quốc gia đã có những đoàn thể xã hội khác, như bộ lạc, thị tộc v.v… và chính hiện giờ cũng có một số người, một số dân lang thang và chưa có một quan niệm về quốc gia rõ rệt. Hơn nữa có thể một ngày nào, hình thức quốc gia sẽ lùi vào lịch sử và sẽ được thay thế bởi những hình thức mới mẻ khác. Dù sao chúng ta luôn luôn ý thức rằng hình thức quốc gia tượng trưng cho một giai đoạn lịch sử.
  • Nhận xét thứ hai là chính ngay trong những quốc gia được thiết lập, có tổ chức, không phải mọi cá nhân đều ý thức sự hiện hữu của quốc gia. Trong nhiều quốc gia vẫn còn những bộ lạc, những miền, những địa phương nơi đó công dân vẫn thiết tha với địa phương, miền của họ và khái niệm Quốc gia chỉ có tính cách quá xa xăm, trừu tượng.
  • Nhận xét thứ ba là hiện tượng Quốc gia – vì là một hiện tượng lịch sử – có thể biến chuyển theo dòng lịch sử. Thật vậy, lịch sử đã chứng minh rằng từ Á sang Âu, đã có những cộng đồng chính trị vượt lên tới trình độ tổ chức của Quốc gia nhưng rồi sau đó Quốc gia chỉ còn là danh từ, mất hẳn thực chất và nhường bước cho sự lấn áp của địa phương.
  • Nhận xét thứ tư mà chúng ta không nên quên là: những yếu tố mà các nhà xã hội đã phân tích trên đây không phải cùng xuất hiện một lúc hay chỉ một lần. Những yếu tố tạo thành quốc gia từ từ xuất hiện và, từng hoàn cảnh lịch sử, yếu tố này thể hiện trước yếu tố kia v.v…
B. VỀ PHƯƠNG DIỆN PHÁP LÝ
Dưới mắt các luật gia, quốc gia là một pháp nhân công pháp có chủ quyền.
Một pháp nhân công pháp
Khái niệm pháp nhân là một danh từ giả định rất tiện lợi cho cuộc sống hàng ngày.
Là một pháp nhân, Quốc gia – mặc dù bao gồm những yếu tố phức tạp, rời rạc – được xem là một người về phương diện pháp lý, có nghĩa vụ cũng như quyền lợi, có tài sản, có ý chí v.v…
Vì là một pháp nhân, nên những người cầm quyền trong quốc gia, khi điều hành nhiệm vụ, nhân danh quốc gia, một pháp nhân.
Quốc gia không những là một pháp nhân mà còn là một pháp nhân công pháp. Hai chữ công pháp ở đây là phân biệt vị trí quốc gia trong một lãnh vực nhất định. Tưởng cũng nên nhắc rằng không phải chỉ có quốc gia là pháp nhân công pháp. Có rất nhiều đoàn thể xã hội – hành chính địa phương hay công sở – cũng có tư cách pháp nhân công pháp. Tuy nhiên chỉ có quốc gia là một pháp nhân công pháp tối cao và tổng quát. Và vì đặc tính này mà quốc gia có chủ quyền.
Chủ quyền.
Quan niệm pháp lý về quốc gia đặt nền tảng trên ý niệm chủ quyền. Thế nào là chủ quyền? Người ta thường phân biệt chủ quyền trong quốc gia và chủ quyền của quốc gia.
Chủ quyền trong quốc gia là đặc tính của cơ quan cao nhất trong hệ thống đối với các cơ quan khác. Mọi cơ quan khác đều tùy thuộc cơ quan cao nhất này (ví dụ trong chế độ dân chủ quốc dân hay quốc hội; nhà vua trong chính thể quân chủ).
Chủ quyền của quốc gia nói lên sự kiện là quốc gia được đặt trên hết mọi đoàn thể xã hội. Bởi vậy, trên bình diện quốc tế, quốc gia là một thực thể hoàn toàn độc lập không thể bị hạn chế bởi một cơ quan quốc tế nào. Quốc tế công pháp chỉ có thể do sự thỏa thuận của các quốc gia và sự tôn trọng thỏa thuận đó tùy thuộc vào thiện chí của các quốc gia.
Theo thuyết chủ quyền quốc gia, thì chỉ có quốc gia mới có chủ quyền. Mọi đoàn thể khác đều phải lệ thuộc ít nhiều quốc gia. Mọi đoàn thể khác đều do quốc gia ban cho tư cách pháp lý và các đặc quyền, bởi thế các đoàn thể đều phải tuân phục uy quyền quốc gia.
Lý thuyết quốc gia chủ tể này do các luật gia từ cuối đời Trung cổ đề xướng và được xem là một phản ứng mãnh liệt chống lại sự phân tán quyền hành dưới thời phong kiến và đồng thời cũng chống lại chủ trương của của Thánh quốc cho rằng quyền bính lan rộng khắp các quốc gia. Và vào thế kỷ 19, lý thuyết quốc gia chủ tể này lại càng thêm sức mạnh với phong trào dân tộc tự quyết và chủ nghĩa quốc gia.
Tóm lại, chủ quyền quốc gia có nghĩa là:
  • Đối nội, quốc gia có toàn quyền ban hành các luật lệ, mệnh lệnh trong công cuộc tổ chức, tóm lại là chính quyền.
  • Đối ngoại, quốc gia hoàn toàn độc lập, không lệ thuộc một tổ chức, một mệnh lệnh nào bên ngoài. Tất cả những nghĩa vụ cùng những ràng buộc đối với các tổ chức hay quốc gia khác chỉ là những nghĩa vụ tự ý, hay sau một thỏa hiệp tự do chứ không phải bị ép buộc.
Nhận xét:
Định nghĩa pháp lý vừa nêu đã bị chỉ trích rất nhiều bởi những tác giả thuộc hệ phái thực tế.
Về khái niệm pháp nhân công pháp
Họ cho rằng đó chỉ là một giả định vô ích, một không tưởng. Trong một quốc gia chỉ có những cá nhân là những người cầm quyền chứ không có pháp nhân gì cả.
Người ta có thể trả lời rằng đấy là một chỉ trích quá đáng. Vẫn biết rằng khái niệm pháp nhân là một giả định nhưng là một giả định tối cần. Và thật ra trong xã hội phức tạp ngày nay chúng ta hằng ngày sống chung với nhiều giả định. Ngay trong trường hợp cá nhân, xem cá nhân là chủ thể có quyền lợi, nhìn cá nhân với một khía cạnh, xem cá nhân là trọng tâm của một số quyền lợi đáng bênh vực là trừu tượng hóa rồi.
Hơn nữa nếu muốn tránh không dùng khái niệm pháp nhân để chỉ quốc gia thì người ta bắt buộc phải dùng những danh từ khác để ấn định những điều đòi hỏi như quốc gia có tài sản, có nghĩa vụ, quyền hành v.v… Như thế chỉ là một vấn đề thay đổi danh từ.
Về khái niệm chủ quyền
Các học giả lại cho rằng đó là một sai lần nữa vì khái niệm chủ quyền đưa đến hậu quả là:
  • Quốc gia sẽ đứng trên luật pháp.
  • Một trở ngại cho việc thiết lập một trật tự quốc tế hữu hiệu.
Thật ra, chỉ trích trên là hậu quả của một sự lầm lẫn hình thức cá nhân của chính quyền và chủ quyền. Người ta muốn nhấn mạnh tính cách ưu thế của luật pháp trong một chính quyền được định chế hóa. Khi mà người ta cho rằng chỉ có cá nhân mới là những chủ thể có quyền và chủ quyền có nghĩa là ý chí độc đoán của một người hay một nhóm người, người ta quên rằng luật pháp chung qui chỉ là một số danh từ không ý nghĩa nếu không có một chính quyền áp dụng và dù cho có đã áp dụng đúng luật pháp, chính quyền vẫn luôn luôn có tính cách tối cao nếu nó độc lập với một quyền lực xã hội ngoài cộng đồng chính trị và có ưu thế trên mọi quyền lực xã hội trong cộng đồng chính trị.
Còn về việc hợp tác hóa quốc tế và thiết lập một trật tự quốc tế hữu hiệu, nguyên tắc chủ quyền không phải là một trở lực không vượt qua được.
C. QUỐC GIA, MỘT CHÍNH QUYỀN ĐƯỢC ĐỊNH CHẾ HÓA
Những nhận xét trên đây của sử gia cùng luật gia cho chúng ta thấy những yếu tố quan trọng của khái niệm quốc gia. Tuy nhiên, hai quan điểm trên không làm nổi bật tinh túy của quốc gia.
Như chúng ta đã thấy; quan điểm của các nhà xã hội học chỉ là một sự phân tích của một sự kiện đã có và quan điểm của luật gia trừu tượng hóa sự kiện ấy. Quốc gia không phải là một thực thể trừu tượng mà trái lại là một thực tại cụ thể được cấu tạo từ một giai đoạn lịch sử và trong những điều kiện xã hội nhất định. Nói đến quốc gia là phải nghĩ đến chính quyền. Vì quốc gia chỉ là một hình thức tổ chức, có hệ thống của chính quyền. Quốc gia là một chính quyền được định chế hóa. Định chế quốc gia thay thế sức mạnh cùng uy lực bởi uy quyền trong việc hành xử chính quyền.
Chính nhờ định chế hóa chính quyền mà chúng ta mới thấy rõ sự phân biệt giữa một sở hữu tập thể (chủ quyền và cộng đồng dân sự) và việc hành xử chủ quyền ấy (vai trò của chính phủ). Nhà cầm quyền có thể đi, nhưng quốc gia luôn tồn tại.
Thống trị, cầm quyền không có nghĩa là một đặc ân hay đặc quyền mà là một nhiệm vụ bị ràng buộc bởi những nguyên tắc hành động, những thủ tục cùng những nghi thức nhất định.
Trong một quốc gia – hay một chính quyền được định chế hóa – ý chí của nhà cầm quyền chỉ có hiệu lực và uy quyền với điều kiện là ý chí ấy nhân danh quốc gia. Và chính qui tắc của định chế ấn định trong điều kiện nào một quyết định của những người ở chính quyền có thể được xem là chính đáng và có giá trị. Chính phủ chỉ còn là đại diện của chính quyền, trong khi chính cộng đồng chính trị là “tác giả”.
Đoạn 2: NHỮNG ĐẶC TÍNH PHÁP LÝ CỦA QUỐC GIA
Sau khi đã phân tích quốc gia và ý thức tầm quan trọng của khái niệm quốc gia một cách tổng quát, bây giờ chúng ta thử xem đâu là những đặc tính của quốc gia cận đại. Vẫn biết rằng mỗi quốc gia được hình thành trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và những nét tân thời của quốc gia không phải chỉ một lần và cùng chung xuất hiện. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nêu lên những đặc tính có thể gọi là chung cho cả các quốc gia trên thế giới hiện nay.
A. TÍNH CÁCH THẾ TỤC CỦA QUỐC GIA
Trước hết, tính cách quan trọng nhất của quốc gia cận đại là tính cách thế tục. Quốc gia và luật pháp ngày nay được xem là những hiện tượng riêng biệt, tách rời khỏi tôn giáo.
Tưởng cũng nên nhắc rằng không phải luôn luôn như thế. Trước đây – và hiện giờ này – đã và đang có một chủ thuyết về quốc gia – được gọi là thuyết thần quyền cho rằng chính quyền luôn luôn có một bản chất tôn giáo. Chính Thượng đế đã tạo chính quyền và tấn phong – trong một quốc gia nào đó – một con người hay một triều đại để sử dụng chính quyền. Hoặc có thể cho rằng chính quyền phát sinh từ Thượng đế, những nhà cầm quyền thì do con người đề cử, nhưng luôn luôn dưới sự điều khiển vô hình của Thượng đế.
Thuyết thần quyền vẫn còn tồn tại trong một số lớn những xứ theo đạo Hồi[i].
Tư tưởng thần quyền đã chế ngự tư tưởng chính trị và nền chính trị của hầu hết các quốc gia thời cổ. Và hậu quả tất nhiên là tôn giáo và chính trị hoàn hoàn hợp nhất. Tất cả mọi người đều nhiệt thành tin nơi sự can thiệp trực tiếp của Thần minh hay Thượng đế vào đời sống hàng ngày và chính lòng tin nhiệt thành này làm cho con người tuân theo những giáo điều và phụng sự tôn giáo. Đời sống chính trị dựa vào tôn giáo; tư tưởng thần quyền có một ưu thế rõ rệt.
Với sự tiến triển của nền văn minh vật chất, và nhất là sự xuất hiện những tôn giáo chủ trương xuất thế, vấn đề phân biệt chính trị và tôn giáo được đặt ra. Tôn giáo chủ trương xuất thế: tôn giáo vượt trên khuôn khổ các quốc gia, dân tộc và xem nhân loại như một khối đồng nhất. Mặt khác, nó xem đời sống hiện tại là hư ảo, tạm thời và nhiệm vụ của tôn giáo là cứu rỗi linh hồn. Nó dạy con người tìm sự siêu thoát bằng cách rời bỏ cuộc đời để tu niệm. Do đó có sự phân biệt rõ rệt tôn giáo và chính trị.
Sự xuất hiện các tôn giáo xuất thế đặt một vấn đề: các tôn giáo có một giáo hội đứng ngoài chính quyền. Và mặc dầu phân biệt chính trị và tôn giáo, chính quyền và giáo quyền, nhưng họ chủ trương chính quyền phải phục tùng và phụng sự giáo quyền.
Trong một tình trạng mà xã hội có nhiều tôn giáo khác nhau: các tôn giáo cũ là tôn giáo phụng sự quốc gia trong khi tôn giáo xuất thế lại chủ trương tôn giáo tách rời quốc gia, thì hậu quả khó tránh là va chạm lẫn nhau. Lịch sử đã chứng minh những cuộc chiến tranh tôn giáo cùng những cuộc xung đột tôn giáo đẫm máu và khốc liệt.
Trước viễn ảnh không tốt đẹp ấy, bắt đầu từ thế kỷ 17, nhiều học giả phát động phong trào chủ trương loại tôn giáo ra khỏi trường chính trị. Phong trào ngày càng phát triển và trong đa số quốc gia ngày nay giáo quyền lần lần nhường lãnh vực chính trị lại cho người tục và chỉ lo hướng dẫn tín đồ trên đường đạo đức.
Dù sao, tính cách thế tục của quốc gia – một chiến thắng của nền văn minh cận đại và là hậu quả của việc định chế hóa chính quyền – có nghĩa là việc hành xử chính quyền tùy thuộc vào những nguyên tắc, qui luật hoàn toàn độc lập[ii] với mọi tham chiếu hay chứng minh tôn giáo.
B. TÍNH CÁCH DÂN SỰ CỦA QUỐC GIA
Đặc tính thứ hai là tính cách dân sự. Hai chữ dân sự ở đây đối chiếu với hai chữ quân sự.
Quốc gia có tính cách dân sự có nghĩa là lực lượng quân sự tách rời chính quyền và lệ thuộc chính quyền. Vì rằng quân lực phải luôn luôn là dụng cụ của chính quyền, dù trong thời chiến.
Nói như thế không có nghĩa là quân nhân – nhất là cấp chỉ huy – không thể ở địa vị chính quyền. Tuy nhiên khi ở cương vị chính quyền, họ không còn hành động với tư cách quân nhân mà trái lại với tư cách lãnh đạo chính trị.
C. TÍNH CÁCH TRƯỜNG CỬU CỦA QUỐC GIA
Quốc gia luôn luôn tồn tại, trong khi[iii] nhà cầm quyền có thể thay đổi luôn, đó là hậu quả cuộc định chế hóa chính quyền như chúng ta đã biết. Do đó cần phải phân biệt rõ hai tư cách của những nhà cầm quyền, tính cách riêng tư và tính cách công vụ. Nguyên tắc này đối với chúng ta rất là hợp lý, thông thường và không chối cãi.
Thật vậy, không ai có thể quan niệm rằng Quốc trưởng hay Thủ tướng có thể lầm lẫn trương mục ngân hàng của mình với Ngân khố Quốc gia, hoặc tiếp tục ngự trị ở Dinh Độc Lập khi mãn nhiệm kỳ.
Với sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng nhân cách của quốc gia chỉ là một sự cấu tạo tinh thần của trí não, một sự trừu tượng. Nhưng sự cấu tạo tinh thần này, sự trừu tượng này lại thể hiện một thực tại pháp lý. Một dân tộc được siết chặt qua lịch sử và trong một tổ chức duy trì mặc dù dân tộc ấy có thay đổi luôn, cộng đồng ấy vẫn là đơn vị bất diệt và một sự sinh tồn trường cửu. Từ nhận thức ấy người ta thấy rằng cộng đồng là một chủ thể pháp lý bất biến, tổng hợp những ý chí, quyền lợi và bổn phận của cá nhân, công dân. Nói cách khác, Quốc gia – trên phương diện pháp lý – là một pháp nhân có thể hoạt động mãi mãi trong thời gian với tất cả hậu quả pháp lý có thể được. Hơn nữa, chính pháp nhân này thể hiện tập thể thống nhất và được ủy nhiệm tối thượng mà trước kia do một hay nhóm người thụ hưởng.
Tóm lại, Quốc gia là một sự thuần nhất trong không gian vừa là một sự liên tục trong thời gian. Quốc gia thể hiện một cộng đồng mà công dân nhận thức và cảm kích.
Đoạn 3: NHỮNG HÌNH THỂ CỦA QUỐC GIA
Quan sát sự sinh hoạt chính trị trên thế giới, chúng ta phân biệt hai hình thể riêng biệt của Quốc gia:
A. QUỐC GIA ĐƠN THUẦN
Thế nào là một Quốc gia đơn thuần? Chúng ta có thể định nghĩa một cách tiêu cực rằng Quốc gia đơn thuần là một Quốc gia không phải chia ra nhiều Tiểu bang. Trong lúc Quốc gia Liên bang là “Quốc gia của những Quốc gia”, Quốc gia đơn thuần là một Quốc gia.
Hình thể Quốc gia đơn thuần là hình thể đơn giản nhất. Trong một Quốc gia đơn thuần, người ta chỉ thấy có những đơn vị hành chính như tỉnh, quận, xã v.v… Những đơn vị hành chính này có thể có tư cách pháp nhân với những hậu quả như có thể có tài sản riêng, sự tự trị trong việc quản trị v.v… Nhưng đó chỉ là một hình thức tổ chức hành chính nhằm thực hiện dễ dàng việc thống trị của nhà cầm quyền trung ương.
Những tập thể địa phương trong một Quốc gia đơn thuần – dù có tự trị – sẽ là những tập thể hành chính nghĩa là chỉ có thẩm quyền về hành chính, luôn luôn bị chi phối bởi luật pháp quốc gia và chịu sự kiểm soát hành chính của cơ quan trung ương.
B. QUỐC GIA LIÊN BANG
Quốc gia Liên Bang là một Quốc gia của những Quốc gia, nghĩa là bao gồm nhiều Quốc gia nhỏ gọi là Tiểu bang. Chế độ Liên bang có thể định nghĩa là một cơ cấu chính quyền trong ấy quyền lực được phân chia giữa chính quyền trung ương và các đơn vị địa phương. Chế độ Liên bang có những đặc điểm sau đây:
1. Trên phương diện quốc tế, các Tiểu bang không có chủ quyền đối ngoại, nghĩa là không có một Tiểu bang nào có quyền cử hoặc có đại diện ngoại giao, có quyền ký kết hiệp ước quốc tế. Giữa các Tiểu bang với nhau, cũng không có sự bang giao được xem như bang giao quốc tế. Tóm lại, chính quốc gia Liên bang mới được xem là một đơn vị trong cộng đồng quốc tế và đại diện cho toàn thể Tiểu bang trong mọi liên lạc ngoại giao.
2. Trên phương diện quốc nội, giữa Quốc gia Liên bang và các Tiểu bang có một sự phân chia thẩm quyền và các Tiểu bang  – vì là những Quốc gia – có một sự tự trị về chính trị lẫn hành chính khá quan trọng.
Sự phân chia thẩm quyền giữa Quốc gia Liên bang và Tiểu bang thường được ấn định trong Hiến pháp Liên bang. Nguyên tắc là tất cả những vấn đề nào mà Hiến pháp không ghi rằng thuộc thẩm quyền Liên bang đều thuộc thẩm quyền của Tiểu bang. Và thẩm quyền các Tiểu bang rất nhiều và rộng rãi. Mỗi tiểu bang có riêng Hiến pháp, Quốc hội và Tòa án. Ngành Hành pháp và các viên chức hành chính đều được giao phó cho đại diện dân cử của Tiểu bang. Tóm lại tổ chức chính trị của một Tiểu bang đúng như một Quốc gia. Tuy nhiên, mỗi Tiểu bang – vì chỉ là một Quốc gia trong một Quốc gia lớn hơn – phải chịu sự chi phối của chính quyền Liên bang. Bởi vậy, thường thường trong một Quốc gia Liên bang, người ta nhìn thấy có hai hệ thống pháp lý cùng áp dụng trong một không gian và chung cho một số người.
Ví dụ bất cứ một công dân Hoa Kỳ nào, bất cứ một lãnh thổ Hoa Kỳ nào cũng bị chi phối bởi Hiến pháp, pháp luật, hành chính, công lý của Quốc gia Liên bang và đồng thời bởi Hiến pháp, pháp luật hành chính, công lý của chính Tiểu bang.
3. Với những nhận xét trên chúng ta thấy rằng Quốc gia Liên bang là một hình thể Quốc gia dung hòa hai hệ thống giá trị: một giá trị địa phương và một giá trị trung ương. Giá trị trung ương tức là tính cách thống nhất của Quốc gia Liên bang được biểu dương bởi cơ quan trung ương, chung cho tất cả Tiểu bang và trên tất cả Tiểu bang. Đặc biệt nhất là về mặt đối ngoại. Giá trị địa phương tức là sự tự trị về nếp sống tinh thần cũng như về phương cách tổ chức của mỗi Tiểu bang.
4. Giải pháp Liên bang thường là một phương tiện để kết hợp nhiều dân tộc không cùng chủng tộc, không cùng ngôn ngữ thành một đơn vị, một Quốc gia nhưng đồng thời vẫn để cho các dân tộc ấy giữ được các đặc tính của họ. Đó là trường hợp của Thụy Sỹ. Giải pháp Liên bang còn là phương tiện thực hiện một nền dân chủ hữu hiệu trong những cộng đồng chính trị quá to lớn, dân cư đông đúc. Thật vậy, trong một quốc gia với hàng trăm triệu dân, quyền bầu cử, sự tham gia chính trị của công dân trở nên quá trừu tượng. Thỉnh thoảng mới có một cuộc bầu cử, nhà cầm quyền trung ương lại đóng đô xa, dân ít biết đến. Trái lại, trong một Quốc gia Liên bang, các Tiểu bang vẫn còn một sự tự trị chính trị và hành chính, người dân có dịp trực tiếp sử dụng quyền công dân và tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

[i] Nguyên văn: “đạo Hồi Quốc” (p&c)
[ii] Nguyên văn: “toàn độc lập” (p&c)
[iii] Nguyên văn: “trong lúc ấy” (p&c)
**************************************************************
Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (3)
Tháng 8 20, 2013
http://www.procontra.asia/?p=3073
Xem kì 1, kì 2
CHƯƠNG II: HIẾN PHÁP
Mục I: THẾ NÀO LÀ MỘT HIẾN PHÁP
Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA THỰC CHẤT VÀ ĐỊNH NGHĨA HÌNH THỨC
Đoạn 2: HIẾN PHÁP TỤC LỆ VÀ HIẾN PHÁP THÀNH VĂN
Đoạn 3: HIẾN PHÁP NHU TÍNH VÀ HIẾN PHÁP CƯƠNG TÍNH
Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA THỰC CHẤT VÀ ĐỊNH NGHĨA HÌNH THỨC
Sở dĩ có vấn đề định nghĩa thực chất và hình thức, là vì khi chúng ta định nghĩa một hành vi, một văn kiện, nhất là một hành vi pháp lý, chúng ta có thể đứng trên hai quan điểm: thực chất và hình thức.
Quan điểm thực chất nhấn mạnh vào mục tiêu, đối tượng, nội dung của hành vi cũng như của hoạt động. Quan điểm hình thức, trái lại, nhấn mạnh nơi thủ tục cũng như những cơ quan liên quan đến hành vi cùng hoạt động.
Với hai quan điểm đó, chúng ta sẽ lần lượt trình bầy định nghĩa Hiến pháp.
A. ĐỊNH NGHĨA THỰC CHẤT
Đứng trên quan điểm thực chất, Hiến pháp là tất cả các qui tắc pháp lý quan trọng nhất của quốc gia, là những qui tắc có tính cách hiến tính, những qui tắc ấn định hình thể quốc gia (quốc gia thống nhất hay quốc gia liên bang), ấn định chính thể (cộng hòa hay quân chủ), ấn định cơ quan điều khiển quốc gia cùng những thẩm quyền của cơ quan ấy. Tóm lại, Hiến pháp của một quốc gia là phản ảnh tổ chức chính trị của quốc gia đó.
B. ĐỊNH NGHĨA HÌNH THỨC
Đứng trên quan điểm hình thức, Hiến pháp là một văn kiện pháp lý tối quan trọng, một văn kiện chỉ có thể thành lập hoặc sửa đổi theo những thủ tục, những thể thức đặc biệt long trọng; thủ tục, thể thức có một giá trị cao hơn những thể thức hoặc thủ tục của những luật lệ thường. Ví dụ: Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật một cách dễ dàng; hay là một đạo luật để sửa đổi một đạo luật khác. Trái lại, trong rất nhiều trường hợp, cần phải một Quốc hội đặc biệt, thường thường gọi là Quốc hội Lập hiến, để soạn thảo Hiến pháp, đôi khi lại phải có cuộc trưng cầu dân ý mới có giá trị. Công việc sửa đổi Hiến pháp cũng vậy, theo những hình thức long trọng, khó khăn, đặc biệt.
C. NHẬN XÉT
Hai quan điểm trên đây có thể gặp nhau và cũng có thể không gặp nhau.
1. Thật vậy, đứng trên quan điểm thực chất, bất cứ một quốc gia nào cũng có Hiến pháp dù rằng không phải là một Hiến pháp theo định nghĩa hình thức. Để lấy một ví dụ, trường hợp Anh Quốc. Chúng ta có thể nói rằng Anh Quốc không có Hiến pháp, đứng trên quan điểm hình thức, vì rằng luật lệ ấn định tổ chức chính quyền Anh Quốc là luật lệ thường, và bất cứ một luật lệ thường nào cũng có thể hủy bỏ, ví dụ hình thức quân chủ ở Anh hoặc tính cách lưỡng viện ở Anh. Anh Quốc không có Hiến pháp về mặt hình thức – nhưng Anh Quốc đương nhiên có một Hiến pháp về mặt thực chất, vì công pháp của Anh Quốc gồm một số luật lệ mà nội dung liên quan đến tổ chức cơ quan công quyền. Tóm lại, có thể có luật lệ có tính cách hiến tính về nội dung nhưng không có tính cách long trọng về hình thức.
Trái lại có những luật lệ có tính cách hiến tính về hình thức nhưng về phương diện nội dung, không liên quan gì đến tổ chức chính quyền. Ví dụ trong một bản Hiến pháp có điều khoản thành lập một cơ quan nào đó. Nhưng qui tắc pháp lý liên quan đến[i] cơ quan này có tính hiến tính, vì đã được ấn định trong Hiến pháp, theo những thủ tục long trọng đặc biệt của Hiến pháp, nhưng thực chất không phải là qui tắc pháp lý về Hiến pháp vì không liên hệ gì đến tổ chức cơ quan công quyền.
2. Chúng ta nói rằng hai quan điểm – thực chất và hình thức – có thể không gặp nhau. Nhưng thường thường có thể gặp nhau, nhất là trong thế giới cận đại. Thường thường trong một quốc gia nào đó, chính những qui tắc có một đối tượng quan trọng (nghĩa là về mặt thực chất) là những qui tắc có một thủ tục và một hình thức long trọng. Bởi thế cho nên, khi chúng ta nói đến Luật Hiến pháp, chúng ta phải nghĩ đến những luật lệ tối cần, căn bản của tổ chức quốc gia mà những luật căn bản ấy, không phải luôn luôn, nhưng thường thường lại được ghép trong một văn kiện đặc biệt gọi là Hiến pháp.
Đoạn 2: HIẾN PHÁP TỤC LỆ VÀ HIẾN PHÁP THÀNH VĂN
A. HIẾN PHÁP TỤC LỆ
Nói đến Hiến pháp tục lệ là nghĩ đến một quốc gia trong ấy, các định chế căn bản được ấn định, không phải bởi một văn kiện long trọng, mà trái lại bởi những cổ phong tập tục, những qui tắc tục lệ, cổ phong vì qui tắc có giá trị không phải vì được ấn định bởi một cơ quan có thẩm quyền mà trái lại, vì được lặp đi lặp lại nhiều lần với một tin tưởng rằng đó là pháp lý.
Để lấy một ví dụ trường hợp Anh Quốc. Khi chúng ta muốn tìm hiểu chế độ chính trị Anh Quốc, ta không thể tìm đâu thấy một văn kiện duy nhất gọi là Hiến pháp. Cái mà chúng ta gọi là Hiến pháp Anh Quốc chỉ là một mớ tục lệ, cổ phong, những thực tiễn cổ truyền từ đời này qua đời nọ và đã được công nhận là định chế quốc gia. Nguyên tắc trách nhiệm của Tổng trưởng trước Hạ Nghị viện – để lấy một thí dụ – một nguyên tắc quan trọng như thế, chúng ta không tìm thấy ấn định bởi một văn kiện nào, mà chỉ là một tục lệ được công nhận mà thôi.
B. HIẾN PHÁP THÀNH VĂN
Nói đến Hiến pháp thành văn là nghĩ đến một văn kiện. Hiến pháp thành văn là một văn kiện lịch sử, được biên soạn theo một thủ tục long trọng, bởi một cơ quan có tính cách đặc biệt, văn kiện ghi chép mạch lạc các luật lệ có liên quan đến tổ chức chính quyền của một quốc gia.
Khác với Hiến pháp tục lệ gồm một mớ phong tục rải rác đó đây, Hiến pháp thành văn qui tụ trong một văn kiện, những định luật căn bản về tổ chức cơ quan công quyền.
C. NHẬN XÉT
1. Nhận xét thứ nhất liên quan đến Hiến pháp tục lệ và Hiến pháp thành văn là đứng trên phương diện lịch sử, Hiến pháp tục lệ có trước Hiến pháp thành văn. Sự kiện này rất dễ hiểu, vì ở bất cứ thời đại nào, trong bất cứ xứ nào, mỗi quốc gia cần phải có một số qui tắc tổ chức chính quyền, trước khi kỹ thuật về luật pháp thành văn ra đời. Các qui tắc ấy – dù không được ghi chép vào một văn kiện – cũng phải có và đã có trong bất cứ một xứ nào để chỉnh đốn cuộc sinh hoạt chính trị.
2. Nhận xét thứ hai – đó là hậu quả của nhận xét thứ nhất – là Hiến pháp thành văn có một lịch sử mới mẻ. Thật vậy, mãi đến cuối thế kỷ 18, Hiến pháp thành văn hay nói cho đúng hơn là ý kiến thảo Hiến pháp thành văn mới thấy xuất hiện và áp dụng. Và chính nguyên nhân đó đã phát sinh ra Hiến pháp thành văn trong những quốc gia vừa thu hồi nền độc lập chống Anh Quốc và kế đó là Hiến pháp của quốc gia Liên bang Hoa Kỳ (1787).
Tại sao ý kiến thảo Hiến pháp thành văn chỉ thấy xuất hiện ở thời cận đại? Vì một lẽ giản dị là ở cuối thế kỷ thứ 18 là lúc mà lý thuyết dân chủ, tự do đã được thấm nhuần và là thời kỳ của phong trào quần chúng tranh thủ tự do dân chủ được đẩy mạnh. Những lý thuyết gia cũng như những đại diện của giai cấp trung lưu đương thời quan niệm rằng các tự do công cộng, tự do cá nhân, tất cả những thắng lợi của quần chúng chống áp bức và chuyên chế cần phải được bảo đảm. Và không có một phương thức bảo đảm cụ thể nào bằng ghi lại trong một văn kiện long trọng, những tự do ấy để bắt buộc chính quyền phải thi hành.
Tóm lại, Hiến pháp thành văn là một bảo đảm chống lại sự chuyên chế của chính quyền – của những nhà cầm quyền tạm thời – vì ghi chép trong một văn kiện những quyền hạn cũng như nghĩa vụ của công dân và chính quyền tức là gián tiếp xác định, công nhận tự do của công dân đồng thời hạn chế một phần nào sự độc đoán của chính quyền.
Nước Pháp bắt đầu từ 1791 với nền Đệ nhất Cộng hòa đã liên tiếp thảo nhiều Hiến pháp thành văn.
3. Nhận xét thứ ba là vẫn biết rằng trên phương diện tổng quát chúng ta có thể phân loại một cách rõ rệt Hiến pháp thành văn và Hiến pháp tục lệ. Tuy nhiên cần phải phân định rằng trong thực tế có một sự lẫn lộn, nghĩa là không có Hiến pháp hoàn toàn theo hình thức thành văn cũng như không có Hiến pháp hoàn toàn theo hình thức tục lệ.
Thật vậy, khi chúng ta định nghĩa Hiến pháp tục lệ, chúng ta có lấy thí dụ Anh Quốc. Nhưng dù trong trường hợp Anh Quốc đi nữa, vẫn biết rằng một phần lớn luật Hiến pháp gồm những tục lệ, cổ phong nhưng bên cạnh các tục lệ ấy cũng có những bản văn liên hệ đến tổ chức chính quyền như Luật về Nhân quyền (Bill of right 1680) như luật ấn định qui chế Thượng Nghị viện Anh (Parliament Act 1911).
Ngược lại, một Hiến pháp thành văn trong một quốc gia nào dù có dài cho thế mấy đi nữa, cũng không thể ghi chép tất được. Cuộc sinh hoạt chính trị rất phức tạp, guồng máy chính trị điều hành rất tế nhị, đôi khi phải dựa theo những tập tục, những thành lệ đã được công nhận bởi giới chính trị, mặc dù các tập tục ấy không có ghi trong Hiến pháp.
Tóm lại, trong thực tế, có một sự lẫn lộn tục lệ và văn kiện và chính cái mớ văn kiện và tục lệ ấy, bổ túc lẫn nhau là những qui tắc căn bản của tổ chức chính quyền trong một quốc gia.
Đoạn 3: HIẾN PHÁP NHU TÍNH VÀ HIẾN PHÁP CƯƠNG TÍNH
Sự phân biệt này liên hệ đến mối tương quan giữa các đạo luật có hiến tính và đạo luật thường.
A. HIẾN PHÁP NHU TÍNH
Một Hiến pháp nhu tính là một Hiến pháp có thể sửa đổi hay được sửa đổi bởi chính những cơ quan và theo chính những thủ tục được áp dụng cho luật lệ thường. Nói như thế, có nghĩa là Hiến pháp không có tính cách ưu thế. Không có một sự đẳng cấp giữa luật Hiến pháp và luật thường. Tóm lại, khái niệm Hiến pháp nhu tính có hai hậu quả sau đây:
1. Không có đẳng cấp, không có sự phân biệt về hình thức giữa luật thường và Luật Hiến pháp mặc dù nội dung của hai loại luật này hoàn toàn khác biệt. Chúng ta có thể nói rằng một quốc gia có Hiến pháp nhu tính, như trường hợp Anh Quốc, là một quốc gia không có Hiến pháp về mặt hình thức.
2. Không có cách hạn chế quyền hạn của nhà cầm quyền. Vì Luật Hiến pháp không có tánh cách ưu thế, một đạo luật thường cũng có thể sửa đổi một đạo luật có tính hiến tính, lẽ dĩ nhiên chính quyền không bị ràng buộc thực sự.
B. HIẾN PHÁP CƯƠNG TÍNH
Nói đến Hiến pháp cương tính tức là xác nhận rằng Hiến pháp có ưu thế trong hệ thống luật pháp của quốc gia. Sự ưu thế này đưa đến những hậu quả sau đây:
1. Sự phân biệt giữa quyền lập hiến và các quyền được thiết định. Từ Hiến pháp mà các cơ quan công quyền nhận lãnh thẩm quyền. Ví dụ: chiếu theo Hiến pháp mà quyền lập pháp được hành xử bởi Quốc hội, quyền Hành pháp bởi Vua, Tổng thống, Chủ tịch hay Tổng trưởng. Nói một cách khác, có một sự phân biệt giữa quyền lập hiến, quyền nguyên thủy, tối cao và các quyền khác được thiết lập từ quyền nguyên thủy đó. Chúng ta có thể nói rằng Hiến pháp – Hiến pháp cương tính – “tổ chức thẩm quyền”. Có nghĩa là quyền hạn nhìn nhận cho các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp không phải là quyền hạn của các cơ quan đó mà trái lại là thẩm quyền giao phó bởi Hiến pháp.
2. Sự phân biệt giữa luật Hiến pháp và luật thường. Sự phân biệt này, chúng ta có thể quan niệm trên hai phương diện: thực chất và hình thức. Trên phương diện thực chất, Hiến pháp bao gồm các qui tắc tối cần, căn bản về tổ chức chính quyền; luật thường nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu công cộng thường xuyên mà cơ quan lập pháp thường có thể làm được.
Sự phân biệt giữa Luật Hiến pháp và luật thường rất quan trọng về phương diện hình thức; Hiến pháp được thiết lập và sửa đổi bởi cơ quan và theo thủ tục khác hẳn cơ quan và thủ tục thường được áp dụng cho luật thường. Nói như thế có nghĩa là luật lệ thường phụ thuộc Luật Hiến pháp. Khi có một Hiến pháp cương tính, luật pháp thường không thể sửa đổi Hiến pháp, mà cũng không thể đi ngược lại những điều khoản của Luật Hiến pháp. Một đạo luật đi ngược lại với Hiến pháp là một đạo luật bất hợp hiến. Và bất hợp hiến là bất hợp pháp.
Mục II: THIẾT LẬP HIẾN PHÁP
Đoạn 1: QUYỀN LẬP HIẾN
Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC THIẾT LẬP HIẾN PHÁP
Đoạn 1: QUYỀN LẬP-HIẾN
A. ĐỊNH NGHĨA VÀ ĐẶC TÍNH
1. Ai lập ra Hiến pháp? Ai có quyền lập hiến? Thế nào là quyền lập hiến? Quyền lập hiến một quyền tối quan trọng – vì là quyền xây dựng nền tảng pháp lý đầu tiên, xây dựng căn bản của tổ chức chính trị của một quốc gia.
Đặc tính của quyền lập hiến là thể hiện chủ quyền quốc gia một cách toàn diện, vì quyền lập hiến, chung qui, là quốc gia tự đặt cho mình những quy tắc tổ chức và điều hành. Trên phương diện đó, quyền lập hiến là một quyền nguyên thủy. Vì nó thể hiện chủ quyền quốc gia, mà chủ quyền quốc gia là quyền nguyên thủy, quyền lập hiến phải là một quyền nguyên thủy.
Nguyên thủy ở đây có nghĩa là quyền lập hiến – trên phương diện pháp lý – không bị giới hạn bởi một điều kiện nào vì chính nó đặt ra luật lệ đầu tiên của tổ chức pháp lý trong quốc gia và chính vì chưa có Hiến pháp áp dụng.
Chúng ta có nhấn mạnh rằng trên phương diện pháp lý cơ quan lập hiến hoàn toàn tự do trong việc soạn thảo Hiến pháp. Tuy nhiên đó chỉ là nguyên tắc. Nguyên tắc này cần phải áp dụng một cách mềm dẻo.
2. Trong những trường hợp nào, hoàn cảnh nào có vấn đề thay đổi Hiến pháp, có vấn đề áp dụng quyền lập hiến?
Trước nhất, có những sự thay đổi đột ngột trật tự pháp lý, thay đổi có tính cách bạo động và là hậu quả của những hiện tượng chính trị mang danh cách mạng hay đảo chính. Đặc điểm của phong trào cách mạng hay những cuộc đảo chính đó là những hành vi bạo động được thực hiện ngoài trật tự pháp lý. Và hậu quả là quyền lập hiến lọt vào tay những kẻ nắm quyền lực lúc ấy.
1.     Sau cuộc đảo chính, một nhà độc tài có thể sử dụng quyền lập hiến và đặt cho quốc gia một Hiến pháp của họ.
2.     Hoặc chính cơ quan lập pháp sẽ nắm quyền lập hiến.
3.     Hoặc những cuộc khủng hoảng chính trị bạo động có thể đưa đến việc thành lập một chính phủ lâm thời. Và chính phủ lâm thời này – sau khi nắm trọn quyền lãnh đạo – sẽ triệu tập một Quốc hội Lập hiến với nhiệm vụ thiết lập Hiến pháp.
Trong tất cả những trường hợp vừa kể – điều cần lưu ý là chắc chắn là Hiến pháp mới sẽ được thành lập trong những điều kiện và thể thức hoàn toàn khác hẳn điều kiện và thể thức được ấn định bởi[ii] Hiến pháp cũ bị xóa bỏ, và quyền lập hiến được sử dụng bởi cơ quan hay nhân vật nào “nắm lấy” được nó trong những hoàn cảnh đặc biệt ấy.
Trường hợp thứ hai áp dụng quyền lập hiến là trường hợp thay đổi Hiến pháp. Trong trường hợp này quyền lập hiến sẽ được sử dụng bởi những cơ quan và theo những thể thức được ấn định ngay trong bản Hiến pháp. (Chúng ta sẽ bàn nhiều khi đề cập đến việc sửa đổi Hiến pháp.)
B. VẤN DỀ PHÂN CHIA QUYỀN LẬP HIẾN VÀ CÁC QUYỀN ĐƯỢC THIẾT LẬP
Nói rằng quyền lập hiến có tính cách nguyên thủy và vô hạn chế tức là khẳng định sự ưu thế của quyền lập hiến trên các quyền được thiết lập. Vì quyền lập hiến ấn định và tổ chức các quyền khác, vì các quyền khác đi từ quyền lập hiến, hậu quả đương nhiên là tính cách ưu thế của quyền lập hiến. Đó là nguyên tắc không chối cãi. Những nguyên tắc ưu thế của quyền lập hiến cần phải được quan niệm như thế nào? Đây là một vấn đề được tranh luận sôi nổi, chúng ta có thể tóm tắt như sau:
1. Quan niệm thứ nhất cho rằng quyền lập hiến thể hiện ý chí của quốc dân, quan niệm này được dựa trên 3 ý tưởng. Thật vậy, khái niệm Hiến pháp phản ảnh hai sự tổng hợp và phân chia cơ quan công quyền. Những quyền được thiết lập ấn định bởi Hiến pháp là những quyền bị phân chia. Nhưng tất cả các quyền đều là sản phẩm của ý chí chung, của quốc dân. Hơn nữa, ưu thế của quyền lập hiến nhằm bảo đảm sự hiện hữu của tự do cá nhân bằng cách ấn định giới hạn quyền lực của các cơ quan được thiết lập – và nhất là cơ quan lập pháp – giới hạn mà các cơ quan này không thể vượt qua, giới hạn ghi rõ trong Hiến pháp. Ý tưởng thứ ba là Hiến pháp chi phối các quyền được thiết lập, nhưng Hiến pháp không thể bó buộc quốc dân vì chính quốc dân là tác giả của Hiến pháp. Quốc dân có thể bất cứ lúc nào sửa đổi hoặc làm lại Hiến pháp.
Quan niệm quyền lập hiến phản ảnh ý chí của quốc dân đưa đến hậu quả tối quan trọng là cơ quan có quyền lập hiến được giao phó toàn quyền lực của quốc dân.
2. Quan niệm thứ hai cho rằng để hành xử quyền lập hiến không cần phải triệu tập những cơ quan đặc biệt mà chỉ cần có những cơ quan có tính cách đại diện về nhiệm vụ là phát biểu ý chí của quốc gia.
Bởi thế, cơ quan lập hiến; nghĩa là cái quyền đặc biệt nhưng giới hạn của quốc gia, cái quyền thiết lập cơ quan và ấn định thẩm quyền của các cơ quan. Nói cách khác, cơ quan lập hiến không thể hành xử bất cứ một quyền nào mà chỉ thiết lập cơ quan có nhiệm vụ hành xử các quyền ấy.
C. NHỮNG GIỚI HẠN CỦA QUYỀN LẬP HIẾN
Vẫn biết rằng quyền lập hiến là một quyền nguyên thủy – nghĩa là cơ quan lập hiến hoàn toàn tự do trên phương diện lý thuyết – nhưng trong thực tế có những điều kiện, có những hiện tượng khách quan giới hạn một phần nào tự do ấy.
a. Triết lý chính trị: những dữ kiện căn bản liên hệ đến triết lý chính trị, cơ quan lập hiến không thể đi ngược lại. Ví dụ vì đây là trường hợp thông thường – cơ quan lập hiến là một Quốc hội dân cử. Một Quốc hội dân cử, được trao quyền lập hiến gián tiếp có nghĩa là nguyên tắc chủ quyền nhân dân và tự do dân chủ được công nhận và xác định. Trong trường hợp này cơ quan lập hiến không thể đi ngược lại nguyên tắc ấy, ví dụ như thảo một bản Hiến pháp có tính cách ít dân chủ, nếu không phản dân chủ. Đề nghị một chế độ quân chủ hoặc độc đoán… Làm như vậy tức là hủy bỏ căn bản của chính mình.
b. Trở lực thứ hai cho cơ quan lập hiến là những cái mà người ta gọi là luật pháp lý tưởng, luật pháp thiên nhiên. Đó là những nguyên tắc hơi trừu tượng, có tính cách giáo lý nhưng được thấm nhuần trong tâm tính nhân loại. Công bình xã hội, nhân phẩm con người – ý niệm mênh mông ấy nhà lập hiến phải chú ý.
c. Sự kiện đã có trong một quốc gia: là tổ chức chính quyền đã có. Những định chế chính trị đã có và đã được điều hành trong một giai đoạn lịch sử bắt buộc nhà lập hiến phải để ý.
Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC THIẾT LẬP HIẾN PHÁP
Quyền lập hiến – như chúng ta đã biết – biểu hiện chủ quyền quốc gia – và là một quyền nguyên thủy. Trên nguyên tắc hoàn toàn tự do nhưng những điều kiện thực tế giới hạn một phần nào nội dung tự do ấy.
Và chính những điều kiện thực tế đó ảnh hưởng đến phương thức của việc thành hình Hiến pháp. Tùy theo mỗi quốc gia, tùy theo giai đoạn lịch sử, một phương thức nhất định được áp dụng.
Một cách tổng quát, chúng ta có thể nói rằng có 3 phương thức thiết lập Hiến pháp:
A. PHƯƠNG THỨC BAN BỐ
Phương thức này có tính cách độc đoán, và thường được xem là một ân huệ. Một cá nhân, nhà vua, một nhà độc tài hay một ủy ban được chỉ định tự thảo ra một văn kiện rồi mang ra ban bố cho quốc dân. Lẽ dĩ nhiên đây là một phương thức ít dân chủ. Lịch sử chính trị nước Pháp cũng như giai đoạn hiện tại của nước ta đã chứng minh phương thức này.
a. Ở nước Pháp, năm 1814, 1830, chúng ta thấy các vị vua Louis 18, Louis Philippe tự ý ban bố một Hiến chương làm nền tảng cho tổ chức chính quyền. Hiến chương là một hình thức phôi thai, sơ khai của Hiến pháp. Tóm lại, là một văn kiện mà một vị lãnh đạo tự ý ban hành có lẽ vì nhận thức rằng nó phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy.
b. Lịch sử chính trị Việt Nam hơn hai năm nay cho chúng ta một trường hợp điển hình về phương thức ban bố này. Chắc hẳn các bạn còn nhớ sau ngày Cách mạng, có những Hiến ước tạm thời số 1, số 2, tháng 8 năm 1964, có Hiến chương Vũng Tàu, tháng 10-1964 Hiến chương, và Ước pháp Tạm thời ngày 19-6-65 hiện nay được áp dụng. Đặc tính chung của các văn kiện mà chúng ta vừa kê khai đó là tất cả đều do một cơ quan tự ý ban bố. Hội đồng Quân đội Cách mạng, Thượng Hội đồng Quốc gia, Đại Hội đồng Quân lực.
B. PHƯƠNG THỨC QUỐC HỘI LẬP HIẾN
Quốc hội Lập hiến là Quốc hội được trao quyền lập hiến, nghĩa là nhiệm vụ thiết lập Hiến pháp. Đây là một phương thức tiến bộ và dân chủ. Toàn dân bầu một Quốc hội rồi ủy cho cái Quốc hội ấy quyền lập hiến. Phương thức này được áp dụng trong nhiều xứ Âu Mỹ nhất là sau một cuộc cách mạng dân tộc.
Ngay tại nước ta. Quốc hội Lập hiến đã được triệu tập ngày 15-3-1956 và đã thảo Hiến pháp 26-10-1956, có một biệt hiệu “Hiến pháp Cộng hòa Nhân vị”. Và ngày 11-9-1966 một Quốc hội Lập hiến thứ hai được triệu tập để soạn thảo Hiến pháp tương lai.
Cần phải nhấn mạnh là sở dĩ người ta gọi Quốc hội Lập hiến là vì đó là một quốc dân đại hội do toàn dân bầu ra với một nhiệm vụ, sứ mạng duy nhất là đặt cái nền tảng pháp lý đầu tiên cho quốc gia, nghĩa là thiết lập Hiến pháp. Một khi thảo xong và Hiến pháp được ban hành, thì Quốc hội Lập hiến chấm dứt nhiệm vụ.
Tuy nhiên các bạn cũng cần lưu ý là trong thời kỳ soạn thảo Hiến pháp – có thể kéo dài năm, sáu tháng – mặc dù chỉ có nhiệm vụ lập hiến nhưng vì chưa có tổ chức chính quyền, Quốc hội Lập hiến kiêm luôn cả quyền lập pháp. Đó là một nguyên tắc thông thường của Luật Hiến pháp trong thời kỳ chưa có Hiến pháp.
C. PHƯƠNG THỨC TRƯNG CẦU DÂN Ý
Ở đây là thỉnh cầu ý dân, hỏi ý kiến, thăm dò lòng dân. Phương thức trưng cầu dân ý thường thường được áp dụng trong hai trường hợp:
  • Hoặc một Ủy ban soạn thảo Hiến pháp soạn một dự án. Dự án này đem ra trưng cầu dân ý xem coi đa số dân chúng chấp thuận hay không.
  • Hoặc Quốc hội Lập hiến soạn dự án Hiến pháp. Dự án này lại phải đem ra trưng cầu dân ý.
Phương thức trưng cầu dân ý có ý nghĩa quan trọng này: trong cả hai trường hợp Hiến pháp chỉ thành Hiến pháp sau khi được toàn dân chấp thuận.
Đó là một điểm cần lưu ý, khi chúng ta đề cập đến phương thức thứ nhì là phương thức Quốc hội Lập hiến, chúng ta có nói rằng Quốc hội ấy biểu quyết chấp thuận, chúng ta có ngay một bản Hiến pháp. Đó là một bản Hiến pháp của quốc gia nhưng trong thực tế đó là một bản Hiến pháp của Quốc hội Lập hiến.
Ở đây – trường hợp trưng cầu dân ý – sau khi Quốc hội Lập hiến biểu quyết chấp thuận bản Hiến pháp – quyết định ấy chỉ được xem là một dự thảo Hiến pháp. Dự thảo ấy chỉ trở thành Hiến pháp sau khi thăm dò ý dân và được sự chấp thuận.
Trưng cầu dân ý là một phương thức hết sức dân chủ vì chính quốc dân phát biểu thẳng ý kiến của mình, và sử dụng trực tiếp quyền lập hiến.
Một thí dụ điển hình về việc áp dụng phương thức trưng cầu dân ý: Trường hợp nước Pháp sau Thế chiến thứ hai, năm 1946.
Dân Pháp bầu một Quốc hội Lập hiến. Quốc hội Lập hiến này soạn thảo và biểu quyết một dự thảo ngày 19-4-1946. Dự thảo này, kế đó, đem trưng cầu dân ý đã bị quốc dân Pháp bác bỏ bằng 10 triệu phiếu nghịch đối với 9 triệu rưởi phiếu thuận.
Tháng 5-1946 dân Pháp lại bầu một Quốc hội Lập hiến thứ hai. Quốc hội Lập hiến thứ hai này thảo một Hiến pháp khác. Và chính dự thảo thứ hai này được dân chúng chấp thuận và trở thành Hiến pháp của Đệ tứ Cộng hòa Pháp, đến năm 1958.
Tóm lại, phương thức thứ ba là trưng cầu dân ý. Chúng ta cũng nên thêm rằng đây là một phương thức dân chủ thật nhưng rất tốn kém và mất thì giờ nhất là khi trưng cầu dân ý đi đôi với Quốc hội Lập hiến.
Vì thế để giản dị hóa, ngày nay các quốc gia thường áp dụng:
  • Hoặc Quốc hội Lập hiến
  • Hoặc Ủy ban chuyên môn + Trưng cầu dân ý.
Mục III: TU CHÍNH HIẾN PHÁP
NHẬN XÉT TỔNG QUÁT
Đoạn 1: AI CÓ QUYỀN ĐỀ NGHỊ TU CHÍNH HIẾN PHÁP?
Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC TU CHÍNH HIẾN PHÁP
NHẬN XÉT TỔNG QUÁT
1. Hiến pháp, dù nó có long trọng, có căn bản đến đâu, dù nó có được thiết lập trong những điều kiện khó khăn và được soạn thảo một cách kỹ lưỡng, Hiến pháp dù sao vẫn là một văn kiện pháp lý, một sáng tác của con người. Mà một sáng tác của con người lẽ dĩ nhiên phản ảnh một phần nào tâm trạng, hoài bão của những người ở thế hệ đó và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử trong một giai đoạn nhất định nào đó.
Sau một thời gian áp dụng, với cái đà tiến triển của nhân loại cũng như với sự thay đổi điều kiện thực tế, kỹ thuật cũng như tâm tính của con người, Hiến pháp có thể không còn phù hợp với giai đoạn mới và vấn đề được đặt ra là phải tu chính, cập nhật hóa cái văn kiện ấy. Cần phải nói thêm – vì đây là một điều dĩ nhiên – rằng khi chúng ta đề cập đến vấn đề sửa đổi, chúng ta gián tiếp và đương nhiên nhận rằng cái Hiến pháp đó, cái khung cảnh chính trị đó, tương đối và một cách tổng quát còn “xài được” và chỉ cần sửa đổi một vài điều khoản nào đó thôi. Nếu toàn bộ xét thấy quá lỗi thời thì lẽ tất nhiên, không phải vấn đề sửa đổi được đặt ra mà trái lại vấn đề hủy bỏ và thiết lập Hiến pháp mới.
Đó là nhận xét thứ nhất: vấn đề tu chỉnh một vài điều khoản của Hiến pháp để cho văn kiện này phù hợp với hoàn cảnh chính trị trong một giai đoạn nhất định.
2. Nhận xét thứ hai: vấn đề sửa đổi liên quan đến nhu tính hay cương tính của Hiến pháp. Hẳn các bạn còn nhớ, khi đề cập đến sự phân biệt giữa Hiến pháp nhu tính và cương tính, chúng ta có nhấn mạnh rằng sự phân biệt này dựa trên tiêu chuẩn sửa đổi.
Một Hiến pháp nhu tính – mặc dù gồm những luật lệ căn bản tổ chức quốc gia trên phương diện thực chất – không có ưu thế – nghĩa là giá trị pháp lý của Hiến pháp nhu tính ngang với luật thường. Vấn đề sửa đổi Hiến pháp trong trường hợp Hiến pháp nhu tính – không thành vấn đề vì sửa đổi rất dễ dàng: đã có một giá trị pháp lý ngang với luật thường thì cơ quan lập pháp có thể bất cứ lúc nào sửa đổi cũng được và bất cứ điều khoản nào của Hiến pháp. Một sự biểu quyết của Quốc hội là sửa đổi ngay Hiến pháp.
Vấn đề sửa đổi Hiến pháp chỉ có tầm quan trọng đối với Hiến pháp cương tính. Vì Hiến pháp cương tính là một Hiến pháp khó sửa đổi. Như chúng ta đã biết Hiến pháp cương tính là một Hiến pháp được thiết lập trong những điều kiện đặc biệt, thường thường bởi một cơ quan đặc biệt, theo những thủ tục long trọng. Lẽ tất nhiên đã thiết lập trong điều kiện đó, thì sửa đổi không phải dễ dàng.
Tóm lại, vấn đề tu chính Hiến pháp chỉ thực sự đặt cho Hiến pháp cương tính. Thường thường các điều khoản về phương thức sửa đổi, cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, cũng như thủ tục cần phải theo được ghi rõ ngay trong bản Hiến pháp.
Đứng trên phương diện tổng quát, về vấn đề tu chính Hiến pháp, chúng ta sẽ lần lượt trình bầy trong đoạn 1: Ai có quyền đề nghị tu chính? và đoạn 2: Những phương thức tu chính.
Đoạn 1: AI CÓ QUYỀN ĐỀ NGHỊ TU CHÍNH HIẾN PHÁP?
Sửa đổi một văn kiện căn bản không phải là một trò chơi. Vì thế không phải bất cứ ai cũng có quyền đề nghị sửa đổi. Vì phải có lý do đặc biệt và thực tế.
Thường thường thì tùy theo Hiến pháp và tùy theo hoàn cảnh chính trị của mỗi quốc gia, quyền đề nghị có thể giao cho cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp, hay cho đa số quốc dân.
1. Cơ quan hành pháp
Quyền đề nghị tu chính Hiến pháp giao cho vị Quốc trưởng hoặc Tổng thống. Ví dụ: Đệ nhất và Đệ nhị Đế quốc Pháp.
2. Cơ quan lập pháp
Có nhiều Hiến pháp giao quyền đề nghị cho Nghị viện. Ví dụ ở Mỹ: Quốc hội Liên bang hoặc 2/3 các nghị viên các tiểu bang có quyền đề nghị.
3. Cả hai cơ quan hành pháp và lập pháp
Hiến pháp 1875 của Pháp.
Điều 103 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm 1967.
“Tổng thống, quá bán tổng số dân biểu hay quá bán tổng số nghị sĩ có quyền đề nghị tu chính Hiến pháp.”
“Tổng thống theo đề nghị của Thủ tướng và Quốc hội có sáng quyền tu chính.” (điều 89)
3. Quốc dân
Hiến pháp 1793 của Pháp dự liệu là quốc dân có thể yêu cầu thành lập một hội nghị để sửa đổi Hiến pháp.
Ở Thụy Sĩ một nhóm công dân có thể đề nghị sửa đổi Hiến pháp. Ngoài ra, cần phải thêm rằng có những Hiến pháp trong ấy vấn đề sửa đổi có tính cách đương nhiên sau một thời gian nhất định. Ví dụ Hiến pháp Bồ Đào Nha ấn định rằng cứ sau 5 năm Hiến pháp phải được sửa đổi.
Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC TU CHÍNH HIẾN PHÁP
Như chúng ta đã biết, trước khi sửa đổi cần phải có đề nghị chu đáo. Và chúng ta đã biết trong thực tế có những cơ quan nào có quyền đề nghị.
Vấn đề đặt ra là bây giờ là hỏi theo những phương thức nào, nghĩa là ai có quyền sửa đổi, cơ quan nào và thẩm quyền của cơ quan ấy. Chúng ta sẽ lần lượt trình bầy cơ quan và thẩm quyền của cơ quan ấy.
Vấn đề chỉ định cơ quan có nhiệm vụ sửa đổi Hiến pháp tùy thuộc ý định của nhà lập hiến khi soạn thảo Hiến pháp. Ý định ấy là muốn hay không muốn cho bản Hiến pháp sắp ra đời có tính cách quan trọng và có một ưu thế tuyệt đối.
Thật vậy, nếu nhà lập hiến muốn giữ cho bản Hiến pháp – và đồng thời chế độ chính trị qui định bởi Hiến pháp một tính cách lâu dài, bền vững thì lẽ tất nhiên về những điều khoản liên hệ đến việc sửa đổi, họ sẽ qui định một thủ tục phức tạp, khó khăn để cho việc sửa đổi khó mà thực hiện.
Trái lại nếu nhà lập hiến quan niệm rằng bản Hiến pháp mà họ cho ra đời cần phải luôn luôn tiến triển nhanh nhẹn với tình thế khi cần, thì thường thường họ ấn định một thủ tục giản dị cho việc tu chỉnh.
Tùy theo ý tưởng căn bản đó, chúng ta có thể tìm thấy 3 phương thức tu chính.
A. CƠ QUAN
a. Cơ quan lập pháp thường
Đây là phương thức thông thường nhất. Quyền tu chính Hiến pháp được giao phó cho cơ quan lập pháp. Nhưng nếu cơ quan lập pháp thường lại có thể biểu quyết bất cứ một đạo luật nào để sửa đổi Hiến pháp thì Hiến pháp trong tình trạng ấy không có tính cách ưu thế của nó. Bởi thế, mặc dù giao cho cơ quan lập pháp thường nhưng để nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiến pháp người ta đặt ra một thủ tục đặc biệt long trọng và khó khăn hơn thủ tục lập pháp thường.
Ví dụ trong một xứ mà Quốc hội có hai Viện. Hiến pháp có thể ấn định rằng đề nghị sửa đổi phải được mỗi Viện thỉnh cầu với đa số tuyệt đối. Rồi sau đó dự thảo sửa đổi phải được hai Viện họp lại thành một và biểu quyết với đa số tuyệt đối hay ¾ hay 2/3 v.v…
Ví dụ: Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956, điều 92 “Đề nghị sửa đổi Hiến pháp chỉ được chấp thuận nếu ¾ tổng số dân biểu tán thành, trong một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu”. Điều 105 Hiến pháp VNCH 1967: “Quyết nghị tu chính Hiến pháp phải hội đủ hai phần ba tổng số dân biểu và nghị sĩ”.
b. Một hội nghị dân cử đặc biệt
Qui định trong Hiến pháp rằng muốn sửa đổi Hiến pháp phải có một hội nghị đặc biệt chứng tỏ rằng ý chí của nhà lập hiến là giữ cho bản Hiến pháp một tính cách long trọng. Thật vậy, muốn sửa đổi Hiến pháp cần phải có một hội nghị dân cử. Và hội nghị có tính cách đặc biệt là có nhiệm vụ duy nhất sửa đổi Hiến pháp. Xong nhiệm vụ hội nghị này cũng hết. Phương thức này áp dụng tại Hoa Kỳ.
“Quốc hội, khi 2/3 xét là cần thiết, sẽ đề nghị các tu chánh án cho bản Hiến pháp này, hoặc theo lời yêu cầu của các cơ quan lập pháp của 2/3 các tiểu bang sẽ triệu tập một hội nghị để đề nghị các tu chính án đó. Trong trường hợp nào cũng vậy, các tu chính án đó sẽ có hiệu lực về mọi phương diện, như là một phần của Hiến pháp này, khi đã được phê chuẩn bởi các cơ quan lập pháp của ¾ các tiểu bang, hoặc bởi các hội nghị của ¾ các tiểu bang tùy theo thể thức phê chuẩn do Quốc Hội đề nghị”. (Điều 5 Hiến pháp Hoa Kỳ)
c. Quốc dân tham dự trực tiếp vào việc sửa đổi Hiến pháp.
Phương thức này có thể áp dụng trong hai trường hợp:
1.     Cơ quan lập pháp thường đảm nhiệm công việc sửa đổi. Tuy nhiên dự thảo sửa đổi cần phải đem ra trưng cầu dân ý để quốc dân duyệt y. Lẽ tất nhiên khi đa số dân chúng không chấp thuận dự thảo sửa đổi của cơ quan lập pháp thì đề nghị sửa đổi không có giá trị. Ví dụ điều 89 đoạn 2 Hiến pháp Pháp “Dự án hay dự thảo luật tu chính do 2 Viện biểu quyết theo một văn bản giống nhau. Tu chính án sẽ có tính cách nhất định sau khi mang ra trưng cầu dân ý.”
2.     Chính quốc dân đề nghị thẳng. Rồi đề nghị cùng dự thảo sửa đổi được đưa ra trưng cầu dân ý. Phương pháp này được áp dụng trong các Tiểu bang của Thụy Sĩ.
B. THẨM QUYỀN
Vấn đề thẩm quyền là như thế này. Được giao phó nhiệm vụ sửa đổi là một chuyện. Mà các cơ quan nói trên có toàn quyền sửa đổi hay không? Nghĩa là có quyền sửa đổi bất cứ một điều khoản nào của Hiến pháp hay không?
Nói một cách khác, Hiến pháp có thể nào cấm hẳn việc sửa đổi, ví dụ như ấn định rằng những điều khoản nào đó có tính cách bất di bất dịch, không thể sửa đổi được?
Thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng nhà lập hiến thường thường giới hạn thẩm quyền của cơ quan sửa đổi Hiến pháp bằng cách qui định rằng những điều khoản căn bản nào đó không thể được sửa đổi. Ví dụ như chính thể Cộng hòa, hình thể thống nhất của Quốc gia, chủ quyền của toàn dân v.v… Hiến pháp Pháp điều 89 đoạn chót “không thể áp dụng thủ tục tu chính Hiến pháp nếu tu chính đó vi phạm sự vẹn toàn lãnh thổ. Không thể tu chính hình thức Cộng hòa của Pháp.”
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa điều 89 “Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các điều 1, 2, 3, 4 của Hiến pháp.”
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967, điều 107: “Không thể hủy bỏ hoặc tu chính điều 1 và điều này của Hiến pháp.”
Mục IV: BẢO VỆ HIẾN PHÁP
Đoạn 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ
Đoạn 2 : NHỮNG HÌNH THỨC KIỂM SOÁT SỰ HỢP HIẾN
Đoạn 3: GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA “LỜI NÓI ĐẦU”
Đoạn 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề bảo vệ Hiến pháp chỉ là hậu quả của tất cả các vấn đề mà chúng ta đã đề cập: Khái niệm Hiến pháp, Hiến pháp cương tính cũng như tính cách ưu thế của Hiến pháp. Hẳn các bạn còn nhớ – khi chúng ta đề cập đến Hiến pháp thành văn – chúng ta đã nhấn mạnh rằng ý kiến soạn thảo Hiến pháp được xuất hiện lúc mà phong trào chống đối chuyên chế và đòi hỏi tự do được đẩy mạnh và để cho những thắng lợi của quần chúng được bảo đảm cần phải ghi lại trong một văn kiện long trọng.
Nhưng ghi lại trong một văn kiện long trọng để làm gì, nhấn mạnh tính cách ưu thế của Hiến pháp để làm gì nếu cơ quan lập pháp có thể biểu quyết những đạo luật trái với Hiến pháp? Vấn đề bảo vệ Hiến pháp tức là vấn đề kiểm soát tính cách hợp hiến của các đạo luật. Kiểm soát tính cách hợp hiến của các đạo luật tức là điều tra, xem xét coi những đạo luật – tức là những hành vi pháp lý ở một địa vị kém hơn Hiến pháp – có phù hợp với tinh thần cùng nội dung của Hiến pháp hay không? Nếu không có sự kiểm soát này, thì tất cả các quyền của công dân ghi trong trong Hiến pháp không còn giá trị nữa.
Vậy một đạo luật trái với Hiến pháp là một đạo luật bất hợp hiến, và hoàn toàn vô giá trị. Đứng trên phương diện pháp lý, quan điểm này không thể chối cãi được. Tuy nhiên, đứng trên phương diện chính trị, vấn đề kiểm soát hiến tính của các đạo luật gặp những khó khăn phức tạp.
* Khó khăn thứ nhất liên hệ đến vai trò của Quốc hội. Thật vậy, trong một chế độ dân chủ, các đạo luật là do Quốc hội. Quốc hội tượng trưng cho ý chí của Quốc gia. Kiểm soát tính cách hợp hiến của các đạo luật tức là kiểm soát Quốc hội và các cơ quan đảm nhiệm nhiệm vụ kiểm soát hiến tính của đạo luật có thể lấn áp cả Quốc hội. Hơn nữa, thường thường vấn đề hay đặt ra khi có một đạo luật liên hệ đến quyền lợi của công dân. Trong trường hợp này, vấn đề kiểm soát hiến tính trở thành phương tiện bảo đảm tự do và quyền lợi cá nhân chống quốc gia. Dưới danh nghĩa bảo vệ quyền lợi và tự do thiêng liêng của con người, cơ quan kiểm soát có thể vô tình bênh vực cá nhân chống Quốc hội, đại diện của nhân dân.
* Khó khăn thứ nhì liên hệ đến vấn đề giải thích. Kiểm soát hiến tính tức là xem đạo luật có phù hợp với Hiến pháp không. Làm như thế tức là phải so sánh nội dung của đạo luật cùng với nội dung của Hiến pháp. Nhưng dù có rõ ràng đến đâu, những danh từ của Hiến pháp cũng cần phải giải thích vì danh từ thường thường vừa tổng quát vừa trừu tượng. Ví dụ tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền tham gia công vụ, quyền tư hữu, v.v… Ví dụ Hiến pháp quy định tự do làm việc. Quốc hội biểu quyết đạo luật hạn chế ngày làm việc 8 giờ. Đạo luật này có trái với tinh thần Hiến pháp hay không? Câu trả lời tùy thuộc ý kiến của cơ quan kiểm soát về vấn đề tự do làm việc. Cơ quan kiểm soát có thể quan niệm rằng tự do làm việc là một nguyên tắc tuyệt đối, một quyền thiêng liêng không thể bị giới hạn. Cơ quan kiểm soát cũng có thể quan niệm rằng tự do làm việc chỉ là một nguyên tắc tương đối cần phải đi đôi với sự lợi ích xã hội cùng luân lý và sức khỏe của con người. Đạo luật có trái với Hiến pháp hay không là tùy theo quan niệm của cơ quan kiểm soát khi cơ quan này giải thích Hiến pháp. Mà như các bạn cũng thừa biết, chúng ta đều là con người, cơ quan kiểm soát cũng gồm một số người. Mà đã là con người thì khi chúng ta giải thích, phê bình, ý kiến của chúng ta một phần nào bị ảnh hưởng bởi nền giáo dục của chúng ta, giai cấp của chúng ta, tuổi tác chúng ta, định kiến của chúng ta. Thành thử ra, khi chúng ta nói rằng cơ quan kiểm soát so sánh đạo luật cùng Hiến pháp, thật ra không phải Hiến pháp mà ý nghĩ của họ về Hiến pháp. Vì thế, nếu cơ quan kiểm soát gồm nhiều người có một tinh thần bảo thủ thì chắc chắn là những đạo luật tiến bộ xã hội không thể nào ra đời vì lẽ bất hợp hiến. Trường hợp điển hình là trường hợp Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Tòa án này – vào khoảng 1933 – đã hủy bỏ tất cả những đạo luật về xã hội – viện lẽ rằng vì phạm đến tự do và quyền tư hữu.
Tóm lại, vấn đề bảo vệ Hiến pháp – kiểm soát hiến tính của đạo luật – trên nguyên tắc là một vấn đề pháp lý dễ giải quyết. Nhưng trong thực tế, đã trở thành vấn đề chính trị hay nói cho đúng hơn – có xen những yếu tố chính trị – như ý kiến chính trị, quan niệm về chính trị
Đoạn 2 : NHỮNG HÌNH THỨC KIỂM SOÁT SỰ HỢP HIẾN
* Kiểm soát bởi một cơ quan chính trị
* Kiểm soát bởi một cơ quan tài phán
A. CƠ QUAN BẢO HIẾN: CƠ QUAN CHÍNH TRỊ
Người ta có thể liên tưởng đến hình thức thứ nhất giao quyền kiểm soát cho một cơ quan chính trị, thường thường là một hội nghị dân cử, hoặc chính một ủy ban của cơ quan lập pháp hoặc một trong hai viện của Quốc hội.
Tóm lại, dù do cơ quan nào, ở đây chúng ta đứng trước một cơ quan có tính cách đại diện kiểm soát tính cách hợp hiến của đạo luật, nghĩa là một cơ quan chính trị kiểm soát một cơ quan chính trị, như thế chúng ta tránh khỏi khó khăn thứ nhất mà chúng ta đã nêu ra khi chúng ta đặt vấn đề kiểm soát. Cơ quan đã làm ra đạo luật, và trong trường hợp đạo luật bị bác bỏ vì bất hợp hiến, không thể bất bình viện lẽ cơ quan kiểm soát không có tính cách đại diện.
Tuy nhiên giải pháp cơ quan chính trị lại có một điều bất lợi. Vì là một cơ quan chính trị, cơ quan này có khuynh hướng cứu xét vấn đề trên khía cạnh chính trị hơn là pháp lý. Mà kiểm soát sự hợp hiến là làm một hành vi pháp lý. Là một cơ quan chính trị, sự kiểm soát dễ bị sai lạc vì cơ quan này nghĩ nhiều đến lợi ích của đạo luật, tính cách hợp thời của nó, cũng như giá trị thực tiễn của nó. Đáng lý ra là một cơ quan kiểm soát tính cách hợp hiến, cơ quan chính trị thường biến thành cơ quan kiểm soát tính cách hợp thời của đạo luật.
Hơn nữa, cơ quan chính trị khó giữ được tính cách độc lập đối với chính quyền vì thường bị ảnh hưởng hoặc áp lực của chính quyền.
B. CƠ QUAN BẢO HIẾN: CƠ QUAN TÀI PHÁN
Để cho việc kiểm soát phù hợp với nguyên tắc trọng pháp, hình thức thường được áp dụng là giao cho một cơ quan tài phán. Chúng ta có thể kể ra 2 trường hợp và đồng thời cũng là hai phương pháp hành động của cơ quan tài phán.
1. Kiểm soát bằng cách thụ lý trực tiếp
Tất cả các đạo luật có thể xem là bất hợp hiến được đệ lên Tòa án. Tòa án này có thể hủy bỏ nếu tính cách bất hợp hiến của các đạo luật được xác nhận. Kiểm soát này được gọi là trực tiếp vì việc hủy bỏ đạo luật do một sự khởi tố trực tiếp.
Bất cứ ai thấy một đạo luật bất hợp hiến cũng có thể đệ đơn xin phán quyết về tính cách bất hợp hiến của đạo luật. Và đơn khởi tố nhằm mục đích trực tiếp và duy nhất là xin tiêu hủy đạo luật.
Cách thụ lý trực tiếp này có 3 đặc điểm :
  • Cần phải được ấn định rõ ràng bởi Hiến pháp.
  • Nếu Tòa án xét thấy có sự bất hợp hiến thì đạo luật sẽ được tiêu hủy, nghĩa là đạo luật đó sẽ được coi như không có.
  • Và sự hủy bỏ này có hiệu lực tuyệt đối, nghĩa là đạo luật sẽ được coi như không có đối với bất cứ ai.
2. Kiểm soát bằng cách thụ lý gián tiếp
Ở đây chúng ta không đứng trước một đơn nhằm mục đích trực tiếp xin hủy bỏ một đạo luật bất hợp hiến. Vấn đề kiểm soát có tính cách gián tiếp vì được đặt ra như một việc phụ đới. Thật vậy, nhân dịp một vụ kiện nào đó trước Tòa án, một bên xin áp dụng đạo luật, một bên xin không áp dụng viện lẽ tính cách bất hợp hiến của đạo luật. Trong trường hợp đó trước khi phán quyết về nội dung vụ kiện, Tòa phải xem trước coi đạo luật có hợp hiến hay không. Như vậy, một cách gián tiếp[iii], việc kiểm soát được đề cập. Trong trường hợp có tính cách bất hợp hiến được xác nhận, Tòa tuyên bố rằng đạo luật bất hợp hiến sẽ không được áp dụng. Nhưng đạo luật không bị hủy bỏ và vẫn còn tồn tại. Sự bất hợp hiến có tính cách tương đối.
3. Nhận xét
Thực tế cho chúng ta thấy rằng không một phương thức nào – trong hai phương thức vừa kể – được áp dụng một cách triệt để. Thật vậy:
a. Trong trường hợp thụ lý trực tiếp: cơ quan tài phán thường chỉ có tính cách tài phán về hình thức mà thôi. Ví dụ trong Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức có một cơ quan mệnh danh là « Tòa án Bảo hiến » với nhiệm vụ xem xét tính cách hợp hiến các đạo luật. Tuy nhiên thành phần và cách tuyển chọn nhân viên của Tòa án đượm một màu sắc chính trị: trong số 24 nhân viên, 16 phải được Quốc hội bầu và 8 được chỉ định trong số các thẩm phán của các tòa án tối cao.
Hơn nữa, không phải bất cứ ai cũng có thể khởi tố xin tiêu hủy một đạo luật bất hợp hiến.
Các sự kiện trên chứng tỏ rằng vấn đề bảo hiến đã trở thành phương thức giải quyết mối tương tranh giữa các cơ quan công quyền.
b. Trong trường hợp thụ lý gián tiếp: phương thức này thường được áp dụng trong các quốc gia thuộc Liên hiệp Anh và đặc biệt tại Mỹ Quốc. Tuy nhiên với những khó khăn mà chúng ta đã thấy, thường thường cơ quan tài phán rất thận trọng trong việc kiểm soát hiến tính các đạo luật và quyết định đình chỉ việc áp dụng khi nào có một vi phạm trắng trợn.
Tóm lại, việc kiểm soát hiến tính của đạo luật trong thực tế đã lần lần mất hẳn tầm quan trọng của nó và đã biến thành một phương thức giải quyết mối tương tranh thẩm quyền trong một quốc gia liên bang.
Như chúng ta đã thấy, đại đa số quốc gia trao việc bảo vệ Hiến pháp cho một cơ quan tài phán và thường thường là Tối cao pháp viện theo hai phương cách vừa kể. Và sự kiểm soát hiến tính các đạo luật thường có tính cách hậu thiên (a posteriori) nghĩa là kiểm soát sau khi đạo luật được ban hành và thi hành.
Cần phải nói thêm rằng cũng có nhiều quốc gia quan niệm vấn đề kiểm soát trước khi đạo luật được ban hành: đó là sự kiểm soát có tính cách tiên thiên (a priori). Thí dụ như ở Syrie, sau khi một dự luật được Quốc hội chung quyết, nếu Tổng thống hoặc ¼ tổng số dân biểu cho rằng dự luật đó bất hợp hiến, dự luật sẽ được chuyển đến Tối cao Pháp viện để thẩm định. Cơ quan này có một thời hạn là 10 ngày để quyết định. Nếu bị Tối cao Pháp viện cho là bất hợp hiến, dự luật sẽ được chuyển hoàn về Quốc hội để tu chính. Ở Pháp tất cả những dự luật được xem là dự luật tổ chức phải do Viện Bảo hiến kiểm soát hiến tính trước khi Tổng thống ban hành.
Đoạn 3: GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA «LỜI NÓI ĐẦU»
Cho đến nay, đặt vấn đề bảo vệ Hiến pháp, chúng ta chỉ nghĩ đến các điều khoản của bản Hiến pháp chính cống. Tuy nhiên thường thường trước bản Hiến pháp chính cống nhà lập hiến hay ghép vào một «Lời nói đầu» hoặc một bản «Tuyên ngôn nhân quyền» trong ấy nhà lập hiến phác họa xã hội tương lai.
Vấn đề đặt ra là những «Bản tuyên ngôn» hay «Lời nói đầu» ấy có một giá trị pháp lý nào chăng? Và, nếu có, đến mức độ nào?
A. Để trả lời, có hai quan niệm rõ rệt: một quan niệm cho rằng các văn kiện ấy có một giá trị như các đạo luật Hiến pháp. Quan niệm thứ hai quả quyết rằng «Tuyên-ngôn» hay «Lời nói đầu» chỉ là những tuyên ngôn của chân lý, những khái niệm của luật thiên nhiên. Tóm lại, chỉ bao gồm một số nguyên tắc, không thể xem là đạo luật có tính cách chấp hành.
Chúng ta nghĩ sao về hai quan niệm trên đây?
Trước hết cần phải nói ngay là quan niệm cho rằng những bản tuyên ngôn, những lời đầu có giá trị của những đạo luật Hiến pháp không thể chấp nhận được: Có những bản tuyên ngôn hay lời nói đầu có một tiếng vang trong một giai đoạn lịch sử, có một tầm quan trọng chính trị đặc biệt; đó là một điều không thể chối cãi. Nhưng sự kiện này không có nghĩa là nó có một giá trị pháp lý ưu thế.
Trong hệ thống pháp lý thực tiễn không thể có những qui tắc pháp lý ngoài qui tắc hiến tính và luật lệ thường.
Những bản tuyên ngôn hay lời nói đầu, thực ra không phải là bản tuyên ngôn về quyền hạn, mà chỉ là bản tuyên ngôn về nguyên tắc chỉ đạo. Vì các văn kiện này không ấn định rõ qui tắc pháp lý có thể áp dụng bởi cơ quan công quyền và nhất là công dân có thể viện dẫn trước tòa án.
Những khẳng định hay tuyên bố có tính cách trừu tượng, không có nội dung rõ rệt và như thế không thể giới hạn thẩm quyền của cơ quan lập pháp trong việc qui định quyền hạn cá nhân.
B. Đó là vấn đề nguyên tắc. Tuy nhiên quả quyết rằng bản tuyên ngôn hay lời nói đầu chỉ có tính cách tổng quát cũng không kém thực tế. Vì thực ra nội dung của các văn kiện ấy cũng có một giá trị pháp lý. Tất cả vấn đề là ấn định giá trị pháp lý nào?
Để giải quyết vấn đề chúng ta cần phải phân tích rõ bản chất của những bản tuyên ngôn hay lời nói đầu. Thật vậy trong các văn kiện ấy thông thường có những khẳng định có tính cách qui tắc pháp lý, và có những khẳng định chỉ nói lên một chương trình.
  • Có những qui tắc pháp lý áp dụng ngay, có một giá trị như đạo luật Hiến pháp. Ví dụ khi lời nói đầu hay bản tuyên ngôn xác định nguyên tắc bình đẳng của công dân trong công vụ, thì công dân nào bị loại bỏ khỏi kỳ thi tuyển vì chính kiến hay tôn giáo hay địa phương chắc chắn có thể viện dẫn nguyên tắc ấy để phản đối một hành vi bất hợp pháp.
  • Trái lại có những điều khoản trong lời nói đầu chỉ nêu một chiều hướng, ý thức hệ hay chương trình hành động của quốc gia. Các điều khoản này thực ra chỉ để ra cho những nhà lãnh đạo và không thể được xem là qui tắc thực tiễn có tính cách bắt buộc. Ví dụ như trong lời nói đầu có qui định rằng: «Mọi công dân có quyền có công ăn việc làm». Lẽ dĩ nhiên quyền này không thể thực hiện được nếu không có một cải cách sâu rộng về cơ cấu kinh tế để tránh nạn thất nghiệp trong quốc gia.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

[i] Nguyên văn: “liên đến”
[ii] Nguyên văn: “được ấn bởi”
[iii] Nguyên văn: “Đây Một cách gián tiếp”


No comments: