Wednesday, November 20, 2013

Văn Hóa và Nhân Quyền trong trào lưu Cộng sản

Văn Hóa và Nhân Quyền trong trào lưu Cộng sản

Hà Sĩ Phu

(Tầm Văn hóa thấp của trào lưu Cộng sản) [1]
Đôi lời viết thêm năm 2013
 
Thực tiễn 18 năm qua chỉ cung cấp thêm những ví dụ ngày càng phong phú minh chứng cho bài viết này. Dân chết trong tay công an, sự đàn áp kèm thêm màu sắc “còn đảng còn mình”, màu sắc côn đồ và thú tính tình dục... là những biểu hiện sa đọa mới của một hệ thống quyền lực văn hóa thấp, thiếu tự tin, thiếu quân tử, thiếu chính danh và liêm sỉ.
 
Sự đàn áp, vi phạm nhân quyền luôn song hành với sa đọa văn hóa như một cặp bài trùng, đương nhiên làm gia tăng sự đấu tranh của dân chúng, lập thành ba mặt tương sinh của thực tiễn xã hội, như được đặt ra ngay từ đầu bài viết.
 
Thực tiễn ấy củng cố thêm cho nhận thức sau đây:
 
- Gia tăng đàn áp, vi phạm nhân quyền không phải là phương thuốc giữ ổn định xã hội, mà ngược lại, có nâng cao văn hóa cai trị và thực sự tôn trọng nhân quyền mới có một xã hội ổn định bền vững.
 
- Trên cái nền thấp về văn hóa không thể có giá trị cao về nhân quyền. Trào lưu Cộng sản mới chỉ thỏa mãn những nhu cầu ở tầm thấp về văn hóa không thể làm nền cho sự phát triển cao về nhân quyền. Bởi đặt “đảng quyền” trùm lên trên nhân quyền và dân quyền nên hệ thống Cộng sản quốc tế tất yếu phải sụp đổ. Dẫu cố gắng cải tổ bao nhiêu ở trên ngọn cũng không thể bù đắp cho những khuyết tật từ trong gốc rễ.
 
Một nước chưa ra khỏi quỹ đạo Cộng sản (tức chế độ Phong kiến mới, Phong kiến biến tướng) không thể có vị trí cao trong nền Nhân quyền của thế giới văn minh. Còn nhớ trong chế độ Phong kiến cũ ngày trước cũng đã có những chức “lý trưởng mua”, “chánh tổng mua”... nhưng đó chỉ là những tước vị để trang trí cho những anh trọc phú mua danh mà thôi. Song, mua danh cũng tốt, vì đã có chút danh cũng không thể dễ dàng làm những điều ô danh như trước.
 
H.S.P
 
________________________
 
1- Quan hệ giữa Tranh đấu, Nhân quyền và Văn hóa

Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn.
 
Đã có nhiều cách tiếp cận để phân loại Quyền Con người, nhưng cách tiếp cận sáng tỏ nhất cho nhận thức là tiếp cận từ quan điểm Tiến hóa. Khi từ bầy đàn chuyển thành xã hội, Con người cũng chuyển từ cuộc sống Sinh vật sang cuộc sống Con người, rồi từ chưa văn minh đến văn minh hơn... Càng văn minh, nội dung tính"Người" càng mở rộng, thì "Quyền Con người" cũng do đó được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì càng có tính VĂN HÓA bấy nhiêu.
 
Với cách tiếp cận Tiến hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn hóa, nội dung Nhân quyền có thể và cần phải xếp thành 3 bậc:
 
a) Quyền làm Người trước hết là QUYỀN ĐƯỢC SỐNG, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như một sinh vật, tức quyền được sống và tự do về thân thể. Tạm gọi là "NHÂN QUYỀN BẬC 1".
 
b) Tiếp sau đó là QUYỀN ĐƯỢC "ẤM NO", nói rộng ra là quyền được chia sẻ những tiện nghi vật chất với những người trong cộng đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy mang tính vật chất, nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài người.
 
Quyền này tuy đã có tính VĂN HÓA, nhưng còn thấp (Văn hóa theo nghĩa rộng, là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy, trong sự tương tác với tự nhiên và xã hội.). Tạm gọi là" NHÂN QUYỀN BẬC 2"., phần nào tương đương với "quyền Kinh tế".
 
c) Cao nhất là những quyền của "Con người văn minh", là những quyền mang giá trị "tinh thần", gồm các sinh hoạt tư tưởng, khoa học, văn hóa, nghệ thuật... liên quan đến các nhu cầu hưởng thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị tinh thần, và nhu cầu làm chủ xã hội. Tạm gọi là"NHÂN QUYỀN BẬC 3" (hay QUYỀN TỰ DO-DÂN CHỦ). Đây là những quyền có tính VĂN HÓA cao.
 
(Tất cả những khái niệm vẫn được dùng trong Quyền Con người như quyền kinh tế-xã hội, quyền chính trị, quyền dân sự, quyền văn hóa..., rồi quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc... vân... vân... đều mang những nội dung không thể tách biệt rành mạch, chỉ nên hiểu một cách linh động, qui ước thôi.).
 
2- Vị trí của phong trào CỘNG SẢN trong tiến trình phát triển VĂN HÓA và QUYỀN CON NGƯỜI
 
Ba bậc thang nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau, song về cơ bản nếu chưa có nhân quyền bậc thấp thì chưa thể có nhân quyền bậc cao hơn, ví dụ chưa được sống và được ăn thì chưa thể nói đến quyền tự do ứng cử!
 
Chưa có bậc thang nào thì phải đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát triển không đều, nên cả 3 cấp Văn hóa, 3 cấp Nhân quyền, và do đó 3 cấp Tranh đấu luôn cùng có mặt trên thế giới. Trong khi người này, ở đây, đang đòi quyền tự do tư tưởng, tự do ứng cử (nhân quyền bậc 3) thì người kia, ở kia còn phải đòi quyền được làm việc và trả lương công bằng (nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có người chỉ mong đòi cho được quyền tự do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền bậc 1).
 
Trong bài "Đôi điều suy nghĩ của một công dân" trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm "Quan hệ dọc" "Quan hệ ngang" trong sự tiến hóa xã hội. Một "Hình thái Kinh tế-Xã hội" tốt hay xấu cho thấy mối quan hệ dọc của xã hội ấy trong dòng thời gian, là tiến hóa hay thoái hóa. Nhưng không phải mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng (hay bị chịu đựng) mức độ cao hay thấp của xã hội ấy. Có sự không đồng đều hay sự lệch pha văn minh giữa các quốc gia đương thời, thậm chí giữa các nhóm người trong cùng một xã hội, gây nên áp bức bất công, đó là mối quan hệ ngang trong không gian địa cầu giữa những người đang sống. Quan hệ dọc và ngang độc lập với nhau nhưng tác động tương hỗ tới nhau.
 
Thế kỷ 18-19, con tàu Văn minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh trên khắp thế giới, khiến cho khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa. Trong "quan hệ dọc", đây là sự tiến bộ rất lớn của xã hội, nhưng trong "quan hệ ngang" nó tạo ra sự mất công bằng ghê gớm. Một loạt ông chủ thành tỷ phú trong khi vô số người khác bị bần cùng hóa. Hình thành một "giai cấp Vô sản" đông đảo, chẳng những bị bần cùng hóa mà bị đe dọa cả sự sống còn. Được trang bị bằng lý luận Mác xít, họ cùng với những người lao khổ khác trở thành lực lượng trung tâm của phong trào Cộng sản.
 
Từ một mức sống thấp như vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần, họ đứng lên đòi Quyền Con người, thực chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và Quyền được "ấm no", tức là tranh đấu cho bậc thang thứ nhất và thứ 2 của thang Nhân quyền, ứng với tầm Văn hóa thấp, như trên đã trình bày.
 
(Có thể họ có ước mơ xây dựng một cuộc sống Cộng sản rất cao sau này, nhưng đấy lại là chuyện khác, chuyện ấy không thuộc phạm vi "tranh đấu" và "đòi". Ai ước mơ gì cứ việc ước mơ, nhưng không ai có thể đòi xã hội cái sản phẩm mà chưa ở đâu có, lại càng không có quyền bắt người khác phải ước mơ như mình.)
 
Nội dung phong trào Cộng sản gồm 2 mặt:
 
* Nhu cầu có tính chất khách quan đối với trào lưu "Cộng sản" là một cuộc đòi "Quyền Con người tối thiểu" cho những người cùng khổ, tức là để giải quyết mối "quan hệ ngang" về sự công bằng, trong đó có sự công bằng giữa các dân tộc. Ở thời điểm lịch sử này phong trào Cộng sản đã có những đóng góp xuất sắc.
 
* Còn việc muốn tạo ra một xã hội mới khác hẳn, văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp tiến hóa trong "quan hệ dọc", thì đây là một hoang tưởng, phi khoa học. Hoang tưởng này tuy có cung cấp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh trên kia, nhưng không được "lịch sử giao phó" nên lịch sử cũng không cung cấp những tiền đề, do đó chẳng những không thành sự nghiệp gì mà trái lại còn gây ra những điều kỳ quái, mà bây giờ "lịch sử" đang đòi hỏi, đang “giao nhiệm vụ” phải sửa chữa, xếp dọn lại tất cả những ngổn ngang bê bối do ảo tưởng Cộng sản gây ra.
 
Tóm lại Cộng sản là một trào lưu đấu tranh cho Nhân quyền tối thiểu, lật đổ vì nhu cầu sinh tồn, nhưng còn ở tầm Văn hóa thấp, có lý và chỉ có ích cho những xứ sở còn chậm phát triển. Giai đoạn ”phá” thành công nhưng giai đoạn “xây” thất bại nên kết quả cuối cùng là tác hại, gây khó cho con đường phát triển.

Muốn hiểu điều này, cần phân biệt giữa tính chính đáng hay tính bức thiết của một phong trào tranh đấu với tầm văn hóa của phong trào ấy. Thật dễ hiểu, cuộc tranh đấu cho những nhu cầu càng ở tầm sinh tồn sinh vật bao nhiêu thì càng bức thiết, càng chính đáng bấy nhiêu, bởi không có nó thì xin đừng đòi hỏi nhu cầu Văn hóa gì hết. Tuy nhiên, tính "chính nghĩa" không đồng nghĩa với tầm cao Văn hóa. Nổi dậy chống bất công là chính đáng, nhưng sau đó xây dựng thế nào là điều quan trọng hơn.
 
Điều thứ hai cần đề cập là quan hệ giữa Chiến thắng và Văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến thắng sau cùng là Văn hóa, nhưng trong một trận cọ xát trực tiếp thì thường xảy ra điều ngược lại: càng có tầm văn hóa thấp càng dễ chiến thắng, cái bạo tàn dễ thắng cái văn minh. Quy luật này thấy rõ ngay trong đời sống hàng ngày. Cũng dễ hiểu vì ở tầm văn hóa cao người ta bị hạn chế bởi rất nhiều điều không thể làm nên tự mình trói tay mình còn kẻ văn hóa thấp thì có thể giành chiến thắng bằng mọi giá, có thể “phóng tay phát động quần chúng” dù có phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn... Chủ nghĩa Cộng sản sẵn sàng hy sinh cả 100 triệu người thì chiến thắng nhất thời là dễ hiểu.
 
Tính Văn hóa thấp của "Quốc tế" Cộng sản được in dấu ở tất cả mọi mặt của phong trào ấy. Chỉ cần dẫn ra mấy dấu vết đã in vào bài "Quốc tế ca" cũng đủ chứng minh:
 
Về lời ca để hiệu triệu và tập hợp lực lượng: "Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...". Những đối tượng này là ở bậc thang đáy của xã hội. Xã hội phải bức thiết dành hết tình cảm cho họ, phải bức thiết đem lại ngay quyền sống cho họ, nhưng trào lưu tranh đấu mà do họ "lãnh đạo" thì chỉ có thể là một trào lưu ớ tầm văn hóa thấp, tương xứng với họ, chắc chắn sẽ bị kẻ gian lợi dụng, là điều quá hiển nhiên.
 
"Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình" là động cơ thật của cuộc tranh đấu. Biện pháp giải quyết là "phá sạch tan tành", "quyết phen này sống chết mà thôi" để "tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt" như Chủ nghĩa đã chỉ rõ.
 
Cả đối tượng, mục tiêu lẫn biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp.
 
Bây giờ nhiều người trong đội ngũ Vô sản ấy đã thành đại hữu sản do tước đoạt. Họ sẽ nghĩ sao nếu những người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước ta bây giờ cũng theo chủ nghĩa Mác hô hào nhau lặp lại một phong trào tước đoạt lại như thế? Hẳn họ phải lên án đó là cách làm vô văn hóa chứ gì nữa?
 
Nếu thấy cần làm lại những bài ca, thì đáng lẽ phải làm lại bài "Quốc tế ca" này chứ không phải làm lại Quốc ca như đã từng chủ trương! Sản phẩm nào của phần "Dân tộc" nói chung là lành mạnh, chỉ những sản phẩm của phần "cách mạng" "giai cấp" mới là cái cần được làm lại!
 
Nhưng nói vậy thôi. Cái đáng phải làm lại nhất là “làm lại” toàn bộ Học thuyết, mà tính khoa học của nó đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi khi ấy người ta nghĩ rằng "đấu tranh đây là trận cuối cùng". Cốt sao lợi quyền về tay cái đã. Ta đấu tranh rồi, ta tước đoạt được rồi thì trường đấu tranh từ đây khóa sổ, không ai được đấu tranh lộn xộn gì nữa, từ đây là hợp lý rồi, không phải "xét lại" nữa, ai chống lại ngai vàng mà ta cướp đoạt thì quy thành phản động hết?
 
Liệu như thế có phải là "qua cầu rút ván" chăng? Tầm Văn hóa như vậy là cao hay thấp?
 
Ý tưởng lấy Búa và Liềm làm biểu tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu biểu cho Thời đại cũng là một cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể nào khác được, khi trào lưu "Tiến hóa" ấy lấy động lực ở người cùng khổ, lấy điểm tựa ở sự bần cùng?
 
Ở một cuộc tranh đấu có tầm văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt (tương đối) với cái tốt hơn, tức là đấu tranh trong hòa bình, không có tình huống"một mất một còn".
 
Cuộc đấu tranh giai cấp "một mất một còn" luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua chiến thắng bằng cách hủy diệt mội trường (như "dẫu phải đốt sạch cả dẫy Trường sơn"!), hủy diệt những công trình văn hóa (như chính sách tiêu thổ kháng chiến), và hủy diệt con người ("đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng"," Tổ quốc hay là chết", và cả mấy triệu người Việt đã thành vật hy sinh cho một cuộc chiến...) thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là những trào lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy những chiến thắng ấy thật đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả chồng và 7-8 người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục.
 
Ở tầm văn hóa cao, người tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến thắng của mình mà quên những giá trị chung của xã hội. Ở tầm văn hóa cao thì sự tranh giành quyền lãnh đạo sẽ xảy ra giữa những người đã ở tầm cao, có tài sản và sự nghiệp để bảo hành. Trong thực tế, không ai dám chơi với những kẻ "nếu mất, nó chỉ mất cái xiềng, còn nếu được thì lại được cả thế giới" (!). Vì trong trường hợp ấy, con người không còn gì để đắn đo cân nhắc, nó chỉ có một con đường là lao vào cuộc sinh tử (quyết phen này sống chết mà thôi!), và sẵn sàng "phá sạch tan tành" tất cả những gì cản đường.(Ta nhận rõ tính kém văn hóa của những người ấy nhưng không quy lỗi cho họ!). Họ sẽ tuyệt đối hóa mục tiêu "Thiện" một cách chủ quan và sẵn sàng làm mọi việc Ác mà không hề phải cắn rứt lương tâm. Họ sẽ quyết định những điều hệ trọng một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng của họ cũng như sinh mạng của cả dân tộc!
 
Một sức mạnh như thế rất khó cho việc chống lại, nhưng lại rất dễ cho việc lợi dụng! Xta-lin, Mao trạch Đông... đã là “những nhà lợi dụng vĩ đại”, và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò!
 
Nhân đây, tôi xin "mở ngoặc" để nói đôi lời về những tác phẩm viết về chiến tranh.
 
Người ta thấy "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh là không chấp nhận được. Quan điểm Cộng sản không cho phép được buồn trong chiến tranh, trên đường ra trận phải vui như trẩy hội (!). Bây giờ hãy ví dụ: gia đình ta đang sống yên ổn thì bị cướp. Đương nhiên cả nhà phải đứng dậy đánh cướp, bỗng dưng ta thành những kẻ phải giết người để tự vệ. Giả sử ta đã giết sạch được cả mười tên cướp chết nhăn răng ra, thì khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy ta có nên kể lại một cách hứng khởi, vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm "buồn" trong đời? Tôi nghĩ chẳng những phải biết "buồn" mà suốt đời còn phải tự day dứt. Càng phải day dứt hơn nếu đã hy sinh mất những người thân và những người ưu tú. Càng có văn hóa càng thấy day dứt. Bởi mình còn tồi, còn kém nên có nhiều cuộc chiến tranh bất đắc dĩ phải làm, nhưng không có cuộc chiến tranh nào lại đáng tự hào cả.
 
3- Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản
 
Mỗi Thời đại có Văn hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp "Cách mạng", với bạo lực quần chúng và tận dụng thời cơ, người Cộng sản có thể cướp chính quyền ngay tức khắc, nhưng văn hóa thì không cướp được; có xây dựng nổi nền Văn hóa đặc trưng của mình hay không, điều ấy mới xác định vị trí của mình trong lịch sử là có thật hay không. Thành bại cuối cùng là ở Văn hóa.
 
Hãy nhìn lại xem việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành bại ra sao?
 
3a- Chiến dịch xây dựng "Con người mới"
 
- Suốt từ những năm 60-70, khi ấy tôi dạy học nên được chứng kiến một chiến dịch dai dẳng và vất vả để cố xây dựng cho được hình mẫu "Con người mới Xã hội Chủ nghĩa". (Vì bác Hồ nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa Xã hội phải có những Con người Xã hội chủ nghĩa.)
 
Sách giáo khoa, tài liệu tuyên giáo, truyện ngắn, truyện dài, sân khấu, điện ảnh, báo chí, phong trào Đoàn Thanh niên Cộng sản, Đội Thiếu nhi Bác Hồ... xây mãi mà không mẫu nào có thể đứng được. Nếu không bám víu vào những phẩm chất của “con người cũ truyền thống” như lòng yêu nước, lao động cần cù, chịu đựng gian khổ hy sinh, thương người hoạn nạn... thì "Con người mới" không còn có xương có thịt gì cả.
 
Cái chất "mới" và "xã hội chủ nghĩa", chất "giai cấp", chất "Đảng", chất "thời đại" tô vẽ mãi vẫn cứ mờ nhạt, khô cứng, thậm chí (nhiều nhà văn, nhà báo kể cho tôi nghe) khối lời nói anh hùng, nhân vật anh hùng là do ta bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người mới giả vẫn không địch nổi cái đội ngũ hùng hậu của những “con người mới thật”, tệ hại, bằng xương bằng thịt cứ tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số lượng và chủng loại, càng điển hình và độc đáo về phẩm chất.
 
Học dốt, bị cô giáo cho điểm kém, bèn lừa lúc cô một mình trong lớp, dùng dao dọa, bắt cô đứng lên bàn, tụt quần ra, thế thôi!... Con muốn lấy tiền của bố, bèn cắt tiết bố hứng vào chậu hẳn hoi rồi cho lợn ăn. Chồng băm thịt vợ cho vào chum nước rồi dùng dây may-xo để nấu. Công an bảo vệ trên cầu Chương dương Hà Nội cũng cướp của, giết người (mà có cấp chính quyền còn định bao che)... vân vân... Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng nhiều độc giả nhất vì chuyển tải được cái vốn "người tốt việc tốt " rất phong phú ấy!.
 
Xe khách đang chạy, bỗng trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc phục, cầm "dùi cui" đàng hoàng, đưa còi lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: Hôm nay làm ăn không được, mày "thí" cho chúng nó 5 đồng thôi! rồi quay sang cười với tôi: bây giờ đâu cũng thế cả, bác đừng cười! Anh phụ lái giở cái giấy phép ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn vào giữa, hơi thò ra một tý để ai có tình ý thì nhìn thấy, rồi nhảy xuống để trình...! Xe lại chạy ngay chẳng cần kiểm tra.
 
Giữa giờ, một anh bạn đến thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang "giờ chính quyền" mà đi được à? Anh bạn tôi cũng cười: "Mình không có tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ăn cắp thời gian bây giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!. Tôi bảo: Sao bây giờ cậu ăn nói "mất lập trường" thế? Anh lại bô bô: Mình là "con người cũ" nên cứ nói toẹt ra, chứ có phải "con người mới" đâu mà vòng vo!
 
Trong một cục diện xã hội như thế, "con người mới" lý tưởng nào có thể sống được?
 
Có thể nói 90 phần trăm tác phẩm văn học được giải trong những năm gần đây là tác phẩm "phản diện"mang tính phê phán, và những "điển hình" xây dựng thành công là những điển hình về mặt trái của Con người và xã hội. Người ta bảo: hãy quên chuyện "Con người mới" đi! hãy tìm lại những "Con người cũ" tử tế. Nhiều bài báo viết: Bao giờ cho đến Ngày xưa?
 
Rất nhiều cuộc "Về nguồn" được tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ "Về nguồn", đua xe đạp "Về nguồn"! Nào thi học sinh giỏi theo nghi thức thời cổ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ!... Chưa biết trong đục thế nào, và mỗi người "Về nguồn" với một ý đồ khác nhau, nhưng người ta đua nhau "Về nguồn", vì ai cũng thấy trước mắt mình nhiều cái "mới" nhăng nhít quá! Có lời bình rằng: Trước đây bỏ "nguồn" để đi tìm Thiên đường Cộng sản, nay lại hò nhau Về nguồn, thật như đèn cù!
 
Còn đang cố tìm một mẫu người "Trung với Đảng, Hiếu với Dân" thì đùng một cái, một ông cán bộ Cộng sản khá cao cấp là Thân Trung Hiếu, đầy đủ cả "Trung" cả "Hiếu", làm tiêu luôn của Dân 48 tỷ đồng! Dân bảo: Tay này chắc là "Trung", nhưng mà bất "Hiếu"!
 
Truyện "Con người mới" kể cả ngày không hết. Không gì bê bối hơn một nền Văn hóa như thế.
 
- Nói đến Văn hóa Vô sản không thể quên nước Cộng sản lớn, quê hương của "Con người mới" Lôi Phong, của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy triệu Hồng vệ binh vô học choai choai, dám đốt hết sách vở và lôi cả những nhà Văn hóa ra đấu tố, quét sơn đỏ khắp người rồi lôi đi diễu trên đường phố, với hàng đoàn xe tăng đi nghiến nát những em sinh viên nhịn đói để đòi dân chủ, với công đào tạo ra những tên lính Pôn pốt ở tuổi chưa ráo máu đầu đã một mình dùng cuốc đập chết cả ngàn người trong tay!...
 
Những hiện tượng "đại văn hóa" ấy mà không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng? Hay do Đế quốc Phong kiến để lại? Hay chỉ có thể từ Văn hóa Vô sản, Văn hóa Đảng mà ra?
 
Không phải ngẫu nhiên mà cái pháo đài Cộng sản nổi tiếng giáo điều với quan điểm "Đế quốc Mỹ là con hổ giấy", "gió Đông thổi bạt gió Tây"... lại cũng chính là nơi sản sinh ra quan điểm "đổi mới" thực dụng nổi tiếng" Mèo trắng mèo đen" không quan trọng, miễn là"bắt được chuột"! Có thể coi hai thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy (từ quá giáo điều sang quá thực dụng) là quan hệ bù trừ, nhân quả, Nhưng nghĩ lại thì thấy hai thái độ ấy cũng từ một gốc mà thôi, đều phản ánh cùng một bản chất duy lợi của tầng lớp cầm quyền, cùng một xảo thuật tuyên truyền, và cùng một tầm văn hóa.
 
Khi trước giáo điều bao nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với Tàu cũng "một mẹ sinh ra" cả!
 
Tóm lại, khi mẫu người Phong kiến đã hết thời thì phải hướng con người theo những giá trị phổ quát của thế giới hôm nay: con người của văn minh công nghiệp và tin học, của kinh tế thị trường, của dân chủ pháp trị. Nếu cứ chập chờn, nghĩ đến một thứ "con người mới xã hội chủ nghĩa" giả định nào đấy, thì kết quả là dứt con người ra khỏi văn minh nhân loại, nếu không ù lỳ như những bóng ma ảo tưởng cổ lỗ lỗi thời thì lại thành những kẻ lừa đảo, lưu manh... rất hiện đại!.
 
3b-Thiếu Văn hóa từ gốc
 
Một nền văn hóa có thể bị băng hoại dần dần do những sa sút của chính trị và kinh tế.
 
Nhưng nền Văn hóa Vô sản tự nó đã có những khiếm khuyết, ngay cả lúc còn thịnh trị.
 
* Nền Đạo đức Vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ Trung, Hiếu, Đức, Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần Kiệm Liêm Chính, đến Chính tâm tu thân, đến kế hoạch trăm năm trồng người, đến điều lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, đến Dân là gốc, coi cán bộ là nô bộc của dân, dĩ bất biến ứng vạn biến... tất cả đều đã có trong sách vở Nho giáo.
 
Duy có chữ QUÂN TỬ là cái tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn.
 
Các nhà lý luận viện cớ rằng Quân tử là tầng lớp bóc lột nên ta không học.
 
Nếu những phạm trù NHÂN, THIỆN, ĐỨC còn mang tính lý tưởng, hoặc còn chung chung, trừu tượng, thì phạm trù QUÂN TỬ đưa thiện-ác vào tới con người cụ thể, tới tình huống cụ thể, thái độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy là một cuộc thử thách quyết liệt: anh nói anh "thiện", anh "đạo đức" thì anh thể hiện ra đi, quyết định lấy một thái độ ứng xử đi; hoặc là hành động một cách"QUÂN TỬ", hoặc là hành động một cách "TIỂU NHÂN"!
 
Những bài học về QUÂN TỬ thiết thực lắm. QUÂN TỬ rất gần với TRƯỢNG PHU và THƯỢNG VÕ. Người ta thua trận, người ta nằm trong tay anh rồi, anh làm gì người ta cũng phải chịu, thì anh sẽ đối xử thế nào? Hoặc là anh học người xưa, đem tất cả sổ sách thù hận đốt đi để coi nhau như anh em, hay anh lục đống hồ sơ cũ ra, bới lông tìm vết để phân biệt đối xử?.
 
Anh có mọi quyền lực trong tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì anh có nhường một tờ báo, một diễn đàn cho những người khác trình bày tiếng nói của họ hay không?
 
Anh nắm hết mọi sức mạnh trong tay, muốn bày đặt cái gì cũng được, thì anh có dành cho Nhân dân một Hội đồng thật sự để giúp anh thu thập tiếng nói của Dân, hay anh lại tìm cách đưa Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy sang phụ trách luôn "Hội đồng Nhân dân" cho nhất quán?
 
Anh có quyền ký một chữ thì người khác có nhà ở, vậy anh có thắng nổi cái lòng tham của con người, dám trọng nghĩa khinh tài mà từ chối mấy lạng vàng đút lót để dành cái nhà ấy cho một thầy giáo nghèo được không?
 
Người Cộng sản thích chơi trò "Đạo đức" nhưng không dám chơi trò "Quân tử", thiệt đến quyền lợi sát sườn ngay!. Mặc dù trên đời cái gì cũng có thể làm giả nhưng thực tế cho thấy Đạo đức giả thì dễ nhưng Quân tử giả thì khó hơn nhiều. Chủ nghĩa Phong kiến so với ngày nay thì vô cùng tồi tệ, nhưng thời thịnh trị nó đã cung cấp cho loài người rất nhiều Người Lớn, là nhờ có một tinh thần QUÂN TỬ. Dùng Đạo đức, con người vẫn có thể lừa cả mình, nhưng khi trong lòng đã cất lên tiếng QUÂN TỬ thì con người phải đối diện với chính lương tâm nó, khó trốn tránh hơn.
 
* QUÂN TỬ thì phải CHÍNH DANH! Có người bảo "Chính danh" là thủ đoạn của bọn thống trị nhằm phân biệt ngôi thứ. Không đúng! Công bằng hay không là ở chỗ "định danh", định nội hàm của Danh, chứ khi định Danh rồi thì phải theo Danh mà làm! "Danh" một đàng "Thực" một nẻo thì đại loạn.
 
Trước tình hình giáo dục lộn xộn bát nháo phải kêu gọi “Trường ra trường, lớp ra lớp, thày ra thày, trò ra trò” là rất đúng, là phải "chính danh"!.
 
Nhạc trưởng cũng phải ra Nhạc trưởng! Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh đứng ra giữa sân khấu mà bắt nhịp cho mọi người trông thấy, chứ không thể chơi trò "giật dây" từ trong hậu trường, hay đứng lấp ló ở chỗ "cánh gà" sân khấu, chờ xem nếu được hoan hô thì ra nhận hoa, mà bị la ó thì chuồn thẳng, tìm mãi chẳng biết ai vừa chỉ huy!
 
Anh muốn chỉ huy cũng được (cứ cho là "được" đi), nhưng nếu chỉ "hiến định" sự chỉ huy, mà không "luật hóa" sự chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ huy? Mà phải là luật của Dân, chứ ĐCS tự làm luật cho mình thì đâu cũng hoàn đó. Nếu có "luật lãnh đạo" cho nghiêm minh (lãnh đạo kém, gây thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì chắc Đảng sẽ tự xin rút điều 4 trong Hiến pháp. Có luật ấy thì khối lãnh tụ Cộng sản đã đi tù lâu rồi, không tin cứ đưa ông Lê đức Thọ ra Tòa án của Nhân dân làm ví dụ thử xem.
 
Trong dân mình có thói khôn vặt: nói thế mà không phải thế! Nói "dzậy" mà không phải "dzậy" nên khi gặp chủ nghĩa Mác Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều thích "nhân danh" nhưng không thích CHíNH DANH.
 
Trong cuốn "Đề cương giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ quá độ" (tức Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có câu: "Nguyên tắc thứ nhất nói về xây dựng Xã hội chủ nghĩa, tuy không dùng chữ Chuyên chính Vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn quán triệt bản chất Chuyên chính Vô sản" (Sđd. trang 15). Thế thì còn đâu là chính danh?
 
Có lẽ do quá quen với "phương pháp luận" Mác xít nên người viết câu ấy không cảm thấy tính TIỂU NHÂN trong đó. Thử hỏi tại sao lại thế: nếu thấy Chuyên chính Vô sản là hay thì phải công khai bảo vệ luận điểm ấy, nếu thấy là dở thì phải thực tâm từ bỏ, chứ ngoài mặt nói với dân không có Chuyên chính mà nội bộ Đảng thì lại dặn nhau: Cứ Chuyên chính mà làm! Thì chẳng Quân tử tý nào?
 
Điều nói dối ấy đã làm dân mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy chính là sự dạy nhau nói dối, và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với Đảng: Nghị quyết nói thì cứ để Nghị quyết nói, mình có cách "vận dụng" của mình, Nghị quyết "dzậy" mà không phải "dzậy"!
 
Người Việt nam muốn ra người Quân tử đã khó, người Cộng sản Việt nam muốn ra người Quân tử lại càng khó hơn. Bởi thế tôi thật kính trọng thái độ Quân tử của tướng Trần Độ khi ông viết cho Đảng những dòng sau đây: "Cần phải dứt khoát chọn một trong hai tư tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện Chuyên chính Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh (liệu có dám ngang nhiên như vậy không-HSP bổ sung). Hoặc thực hiện một Nhà nước Dân chủ pháp quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân. Không thể cứ nói nửa nọ nửa kia nhập nhằng."
 
* QUÂN TỬ lại gắn với LIÊM SỈ. Liêm sỉ là biết tự xấu hổ, trước hết là với lương tâm mình. Bậc trượng phu không được lấy nê vì Nghĩa lớn mà bước qua những điều Sỉ nhỏ. Hoàng Diệu, Phan thanh Giản, Nguyễn tri Phương tuy không có tội, nhưng xấu hổ vì không làm tròn nhiệm vụ giữ thành nên quyết tự vẫn. Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng tự sỉ càng phải lớn. Có khi đời tha cho mình mà mình không tha cho mình được. Ở ta, người Cộng sản làm hỏng việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại chuồn được!). Chuyện ấy địa phương nào cũng có, Trung ương lại càng điển hình. Phải chăng vì bài ca "lợi quyền" kia đã ngấm vào xương thịt?
 
Để riễu cái thói đạo đức giả nhưng lại vô sỉ, bám ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan chức “cách mạng giả cầy” thế này: "Ông không ham chức quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở lại làm đầy tớ của dân! Đứa nào ngăn không cho ông làm đày tớ ông đánh bỏ mẹ." (!)
 
Nhiều lúc tôi tưởng tượng như cả dân tộc mình đang ở trong trạng thái thôi miên.
 
Tôi nghĩ đến một ví dụ khác, một người đủ tư cách thay mặt cho Đảng. Tôi không có ý định chỉ trích cá nhân ông, nhưng trường hợp của ông lại rất điển hình. Trước đây ông nổi tiếng là người Mác xít gang thép, chẳng những trong việc “đánh Đế quốc Mỹ và tay sai”, mà cả trong việc đánh đồng bào mình, những nhà "công thương nghiệp tư bản tư doanh"(họ mang tiếng là Tư sản nhưng chưa giàu bằng các vị Tư sản đỏ bây giờ). Hiện ông cũng đang rất gang thép trong việc kiên trì Mác-Lê và định hướng Xã hội chủ nghĩa. Ấy thế mà đùng một cái, ông ngồi sánh vai với " bọn tay sai Nam Hàn" (cái "bọn" mà tôi còn nhớ trước đây chúng "giết bộ đội mình như ngóe"), ngồi để ký kết những chương trình mà chắc chắn là phản lại cái "chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh" của ông trước đây (và nhận quà biếu tới 2 triệu đô-la). Tôi tự giải thích: có thể sự quay ngoắt 180 độ này là một sự tỉnh ngộ, đổi mới chân thành, muốn làm bạn với tất cả mọi người.
 
Có thể thế lắm chứ! Nếu ông đổi mới như vậy thật thì quá tốt.
 
Nhưng, người sám hối có những "triệu chứng lâm sàng" rất dễ nhận thấy. Biểu hiện buộc phải có là "ngượng", là "thẹn", khiến cho những người khó tính nhất cũng phải tha thứ.
 
Trong trường hợp này, các "triệu chứng lâm sàng" đáng yêu kia hoàn toàn không có. Người đã có sai lầm tội lỗi chẳng những cứ thản nhiên cười nói, mà còn giữ tư thế huấn thị, kiên trì chủ nghĩa, xử tội, “chém tay” quát nạt thiên hạ, thì đây chỉ có thể là sự thiếu nhân cách đến vô liêm sỉ.
 
Điều lạ nữa là tại sao tất cả những cán bộ xung quanh, trước hết là những người hữu quan, lại không ai lấy thế làm xấu hổ, một thứ xấu hổ mà chỉ cần là một người có nhân cách bình thường thôi cũng không chịu nổi! Mà đâu phải riêng việc đó, bao nhiêu điều quay quắt, lộn ngược lộn xuôi rành rành trước mắt, mà lại có thể tươi tỉnh như không? Mà đều nghĩ được cách giải thích, mà lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi người không hề ngượng mồm?
 
Tôi không muốn lên án riêng ai, bởi thế tôi thấy chỉ có thể giải thích đây là một trạng thái thôi miên tập thể. Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị:" Hãy coi chừng! không được trái ý Mác Lê! Hãy coi chừng, không được trái ý Mác Lê!" như sợ một bóng ma trong tiềm thức, một tay cầm gậy một tay cầm củ cà rốt. Mác-Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác Lê giống mấy ông Công an, giống bà trưởng phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống những kỷ niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên bàn thờ... Mác-Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong khí quyển thôi miên ấy, con người phải quên nhân cách riêng, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn!. Cái gọi là “Lý tưởng Cộng sản”(mà chưa biết một thế kỷ nữa có thực hay không) bây giờ chỉ còn là cái bình phong tự lừa dối lương tâm để làm điều vô liêm sỉ, phá bỏ chiếc bình phong che mặt ấy chính là giúp người ta trở về con người có nhân cách thật, đó là việc làm nhân ái, cứu người! Bởi Dối trá là điều kiện cần và đủ cho cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản tồn tại và phá phách xã hội. Không có vị anh hùng dân tộc nào đủ sức chống lại con Quỷ dối trá ấy, trừ phi mỗi người công dân dám tự dấn thân một lần “Nói thật để cứu nước”!
 
Khi học môn giải phẫu cơ thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần kinh chỉ huy việc khép đùi nên tên là dây "thần hinh thẹn". Bây giờ mỗi khi cùng nhau tâm sự chuyện đời, chúng tôi lại nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt mất dây "thần kinh thẹn" rồi. (nhưng khi nghe những thằng bạn thao thao bất tuyệt trên Ti-vi chúng tôi vẫn thấy thẹn thay). Cảm ơn Tạo hóa đã cho Con người biết thẹn, nếu không, ai giữ Văn hóa cho Người!
 
3c- Hiện tình “Văn học Cách mạng”
 
Tính cách Dân tộc ấy, hoàn cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện vào nhau nhào nặn nên một tổng thể Văn hóa 'đặc sắc' không bút nào tả nổi. Nền Văn học "hiện thực xã hội chủ nghĩa" cố kéo dài hơi thở hào hùng thời kháng chiến một cách đuối sức, tỏ ra bất lực và mất phương hướng trước một thực tế mà nó không nhận thức nổi hay không dám nhận thức. Một số tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự giả tạo và đạt được sự phê phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối ra. Giải thưởng Văn học nào cũng "có chuyện". Làm sao có thể tổ chức nổi một cuộc thi cho tử tế khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm lại những từ ngữ cơ bản, viết lại những mệnh đề cơ bản: chẳng hạn "Cách mạng" nghĩa là gì, "phản động" nghĩa là gì, "yêu Chủ nghĩa xã hội" có phải là "yêu nước" không?... vân vân... Người chấm thi bị xé về hai chiều, "con người chính trị " phải đạo không còn chung sống nổi với "con người văn học" trong một thể xác như ở giai đoạn trước, và mỗi "con người" ấy trả lời những câu hỏi trên một cách trái ngược nhau.
 
Tất cả những giá trị văn học chân chính lâu dài mà ta đã gặt hái được trong mấy chục năm mà ta gọi là 'Cách mạng' thực chất không có gì khác ngoài giá trị Văn học yêu nước và nhân bản, còn cái chất 'chuyên chính vô sản' nếu có đóng góp thì chủ yếu là gây nên cái mặt trái của nền văn học đó.
 
Làm sao có được "tác phẩm tương xứng với thời đại" khi nhà văn không thể nhìn thẳng vào thời đại bằng con mắt của riêng mình? Vừa phải nhìn bằng con mắt của người khác, lại vừa nơm nớp lo không biết trong cặp mắt kia bên nào mắt thật bên nào mắt giả?. Mắt vẫn mở, mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi miên rồi.
 
Trong xã hội quái đản ấy đã bật ra bút pháp Nguyễn huy Thiệp: Cái khốn nạn, lưu manh hết chỗ nói mà cứ bình thường như không, thương nó cũng dở, giết nó không nỡ, không lần được cái đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm điều đồi bại mà cứ như vô tình... Cái Thiện, cái Mỹ thì mong manh như mây khói. Phải chửi Trí thức! phải chửi Đạo đức! phải tốc ngược lịch sử lên để nhìn rõ những chân dung ngụy tạo! Cái nhạy cảm đạo đức tuyệt vời thiên phú của anh xui anh làm thế! Trong tấn tuồng đời, các vai đạo đức đã bị những kẻ vô đạo giành đóng hết rồi!
 
Nhưng anh phải nén tấm lòng xót xa ấy, xã hội không cho anh xót xa, đất nước đang đi lên không được xuýt xoa. Vì thương con người mà không thể thương con người (tôi thích lời bình luận ấy của Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc động nên phải viết lời vô cảm! Đọc những câu văn tục tĩu, vô cảm hoặc độc ác của anh tôi cứ ứa nước mắt. Chỉ riêng cái 'vỏ' bút pháp của anh đã chứa hết cái ruột gan của xã hội trong đó rồi. Cốt chuyện chỉ còn là cái cớ, lúc thực lúc hư.
 
Xã hội quái đản ấy cũng buộc phải đẻ ra thơ "Bút Tre" để phản ánh nó, khi văn học chính thống cứ ngồi lù lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút Tre ở Vĩnh phú mà ông Ngô quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ ngẩn một cách chân thành, và chân thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn hóa Vĩnh phú kia chỉ là cái cớ để dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của mình, để riễu cợt những giá trị mà công khai họ cứ phải "hoan hô". Thơ "Bút tre thật" không ai thuộc làm gì, đọc rồi cũng không nhớ được, còn"Bút tre dân gian" thì mỗi lần nghe người ta đọc, tôi lại thấy cái sức sống mới mẻ, say sưa như thể chính người ấy đang sáng tác. Câu thơ Bút tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê đơn nghĩa, để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo điều. Cười bò ra, rồi chảy nước mắt... vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa tiện trích dẫn ở đây.
 
Còn những "cây đa cây đề" trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều bị chia đôi:
 
"Vị nghệ thuật" nửa cuộc đời,
Nửa đời sau lại "vị" người ngồi trên!
(Xuân Sách, chân dung Nhà văn)
 
Cái còn lại của những tài năng văn học tiêu biểu ấy là những tác phẩm thanh xuân đầu đời, của người nghệ sĩ tự do, những Điêu tàn, Lửa thiêng..., còn nửa sau là cái nửa "lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa" (Xuân Sách, chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự nghiệp lẫn nhân cách. Người bị mất chung quy là Dân tộc. Những bài thơ di cảo "Bánh vẽ", "Trừ đi", "Ai, tôi" của nhà thơ Chế Lan Viên lỗi lạc (xem phụ lục 3) đủ để tự phủ định toàn bộ cái nửa đời sau của cả một thế hệ văn nhân, nhưng những ngày cuối cùng của ông lại cho thấy những nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy họ đâu có thể tự do "về nguồn" theo lương tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để thẳng thắn trả lời câu hỏi:
 
Cuộc đời hai nửa vì đâu?
Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình!
(HSP, thư gửi Xuân Sách)
 
Dòng Văn học mới không thể không "phản tỉnh", tự mình "lật tẩy" mình để tự vượt qua, vượt qua mình, vượt qua một vùng Văn hóa thấp mà về với loài người văn minh.
 
*
 
Tóm lại không thể xây dựng nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một "giai cấp Vô sản tiêu biểu cho thời đại" như Mác tưởng tượng. Những xã hội trước đây đã lao theo con đường của Mác thì nay chẳng có con đường nào khác ngoài con đường trở về với Dân tộc truyền thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội dung hoàn toàn khác với nội dung Thời đại mà các Đảng Cộng sản thế giới trước đây ấn định.
 
Tình hình xã hội trong giai đoạn chuyển đổi tất nhiên rất phức tạp. Muốn có lối ra tốt đẹp nhất cho Dân tộc thì phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa và phải giải quyết một cách Văn hóa. Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn hóa cũ đã kém sức sống thì tình trạng tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội để những thứ Văn hóa không lành mạnh xâm nhập và chiếm lĩnh. Trong điều kiện ấy xã hội sẽ có sự ổn định bề ngoài nhưng thoái hóa bên trong, xã hội có thể đạt những tiến bộ nhất định về Kinh tế nhưng sẽ thoái hóa về Văn hóa nói chung. Văn hóa thấp kém sẽ phá hoại tất cả!.
 
 
Hà Sĩ Phu (1995)
 
 
___________________________
 
[1] Đây là một phần trong bài Chia tay Ý thức hệ, với đôi chút chỉnh lý.

Bằng chứng bán nước toàn diện của cộng sản Việt Nam

Những sự thật cần phải biết - (Phần 30) - Bằng chứng bán nước toàn diện của cộng sản Việt Nam
Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Cộng sản Việt Nam đã bán nước cho Tàu? Câu hỏi đó là sự thật rất nhiều người biết. Nhưng thực chất cộng sản bán nước từ bao giờ? Nhằm hệ thống lại một lần nữa cả một quá trình bán nước của cộng sản Việt Nam mà đứng đầu bắt nguồn từ Hồ Chí Minh. Để từ đó, mỗi chúng ta cần phải thấy rằng: Không còn cơ hội cho chúng ta vô cảm với dân tộc nữa. Phải đứng lên lật đổ bọn bán nước cộng sản để cứu dân tộc càng nhanh càng tốt!

I. Những bằng chứng thực tế:


1. Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh:

Trong chuỗi dài hành trình bán nước của mình thì cộng sản Việt Nam đã thể hiện ra bên ngoài bằng hành động có chứng cớ đầu tiên phải nói đến đó chính là công hàm 1958. Xin được tóm tắt lại một số ý chính của công hàm này (Có thể xem đầy đủ tại:


a. Tuyên bố của phía Trung cộng về chủ quyền ở HS-TS của VN:

Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng mà đại diện là thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố về chủ quyền hải đảo của Trung cộng. Tuyên bố này được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân. Bạn đọc có thể tìm hiểu tại links sau: lunwen2.com/New-190.html (Những links cũ trong “Những sự thật không thể chối bỏ” - phần 2 đã bị xóa). Nội dung của tuyên bố trên của Trung cộng được dịch ra tiếng Việt như sau:

b. Trước hết là bản dịch của dịch giả Trần Đồng Đức:

Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958

Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa).

Đại biểu ủy viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)

Quyết nghị

Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải

Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:

* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.

* Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thủy vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.

* Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lãnh hải vào không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lãnh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

* Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp.

(Chú ý ở đây: Tây Sa và Nam Sa là cách gọi của Trung Cộng về HS-TS của Việt Nam)

Tuyên bố của Trung cộng

c. Bản dịch của báo Đất Việt (Cộng sản Việt Nam):

Nội dung bản dịch này là chính xác bản thân chúng ta có thể kiểm chứng. Tôi xin nêu ra đây một minh chứng bản dịch của Trần Đông Đức là chính xác vì vấn đề chính trong tuyên bố Trung cộng tuyên bố về chủ quyền HS-TS đã được tờ Đất Việt (Báo của đảng cộng sản Việt Nam công nhận). Đây là links của bài báo đó trên tờ Báo Đất Việt (Chi nhánh của BQP cộng sản): baodatviet.vn/quoc-phong/201107/Su-that-ve-cong-ham-cua-Thu-tuong-Pham-Van-dong-2256218/

Trong bài viết của báo Đất Việt có đoạn: Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).

Như vậy: Trung cộng rõ ràng đã tuyên bố HS-TS là của họ trong tuyên bố 4/9/1958 của Chu Ân Lai. Cả dư luận lẫn đảng cộng sản Trung quốc, cộng sản Việt Nam công nhận.

d. Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng:

Ngay sau khi tuyên bố của Trung cộng về việc HS-TS là của họ thì Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng Việt Nam Dân Chủ cộng hòa (VNDCCH) tiến hành việc đưa ra công hàm ký ngày 14/9/1958. Công hàm này như sau:


Công hàm này ngoài ra thời điểm đó còn được các tờ báo Nhân dân thời điểm đó đưa tin (Báo nhân dân là cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Việt Nam). Đây là hình ảnh của Báo nhân dân đã đưa tin về sự kiện này:


Và ngay sau đó thì sáng ngày 21.9.1958, Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Trung cộng, đã gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm của Phạm Văn Đồng đến Chu Ân Lai.

Trước đó, năm 1956, Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao Trung cộng, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Lý Chí Dân (Li Zhimin), tham tán sứ quán Trung cộng tại Việt Nam: “chiếu theo tài liệu Việt Nam thì HS và TS thuộc về Trung Quốc”.

Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: “Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống”. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài "Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa".

Sau này, khi trả lời Xuân Hồng BBC thì bà Bảy Vân vợ Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẩn nói: "Phạm Văn Đồng có ký văn bản: Ngụy nó đóng ở ngoài đó. Cho nên giao cho TQ quản lý Hoàng Sa... Phạm Văn Đồng có ký tên..". Điều này càng xác nhận cho việc bán nước của Phạm Văn Đồng là không thể chối cãi. Bạn đọc có thể xem clips phỏng vấn tại: youtube.com/watch?v=z8jX8YrRiG4

Trong cuộc phỏng vấn GS Hà Văn Thịnh - giảng dạy môn lịch sử tại trường Đại học Huế của RFA có nói: "Hồi đó tôi học năm thứ nhất Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Nói thực là ông Hoàng Tùng khi đó, tôi không nhớ rõ thầy giới thiệu như thế nào, nhưng mà thầy giới thiệu là các em hôm nay - 180 sinh viên Khoa Sử - Đại Học Tổng Hợp Hà Nội nghe ông Hoàng Tùng - Ủy viên Trung Ương đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân, hay là Ban tư tưởng Trung ương gì đó, chức vụ tôi không nhớ, nhưng mà ông Hoàng Tùng nói chuyện về lịch sử thì ông có nói chuyện Hoàng Sa. Ông nói nguyên văn thế này: "Vì ta bận đánh Mỹ, không có thời gian và chưa đủ khả năng để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống nhất đất nước rồi phía bạn sẽ trả cho mình.".


Hội nghị về COC - DOC tại Indonesia ngày 4/9/2010 với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía cộng sản Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ năm 1974, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, cộng sản Việt Nam nói, “có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”.

Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau: "Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai quần đảo này."

Năm 1977, bản thân Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông ta về công hàm này một cách gượng gạo: "đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi".

2. Mất đất và biển khắp nơi:

Không chỉ mất Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung cộng bằng công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh thì hiện trạng mất đất và mất biển cũng diễn ra khắp nơi.

Thứ nhất, về mất biển: Ngày 25/12/200, Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt 11.362 km2 trên vịnh Bắc bộ cho Trung cộng, là hành động cắt biển bán cho Trung cộng để lấy 2.000.000.000 Usd, để về chia chác cho Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải... để đổi lấy những cái gật của Khải, Kiệt v.v...

Sau vụ bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính cho biết thì không ai biết được ai trong bộ chính trị đã ký tên trong vụ bán nước này, Bộ chính trị cộng sản đã dấu nhẹm chuyện này và BÍ MẬT đã được BẬT MÍ và sau đây là những diễn biến về cuộc BÁN NƯỚC:

1) Lê Khả Phiêu bị Trung cộng gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sinh được một bé gái. Phiêu không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều lần Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1 năm 1999. Đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu Phiêu không hợp tác. Và buộc Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.

2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do Tang Jiaxuan và tình báo Trung cộng sang Việt Nam, họ gặp kín Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất.

3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang Trung cộng và Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc hiến thêm đất. Trung cộng nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều mỹ nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn nhậu cùng Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan.

4) Bộ Trưởng Trung cộng Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bộ Trưởng cộng sản VN tại ThaiLand khi Tang Jiaxuan viếng thăm nước này. Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang Thailand gặp Bộ Trưởng Ngoại giao TC tại khách sạn Shangri-La Hotel Bankok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi cộng sản Việt Nam hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi Việt Nam cắt 24,000 sq Km vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.

5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc, Bộ Chính trị cộng sản VN cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Lý Bằng cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi.

Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh phải được cử làm Tổng Bí Thư sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị Trung cộng “đòi nợ cũ”, Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với Lý Bằng là sẽ xem lại sự việc. Sau đó Lý Bằng bắt Khải ngồi chờ, nói là Chủ tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp Giang Trạch Dân và cho Zhu Rongji hù dọa Khải nói: “Trung Quốc đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh... nếu không nghe lời TQ Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị “chích thuốc”. Khải cúi đầu và run sợ, sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác trong Quốc Hội cộng sản VN. Khải không được khoản đãi như một vị quốc khách vì tính tình bướng bỉnh không nghe lời đàn anh...”.

6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao cộng sản Lê Công Phụng được Trần Đức Lương âm thầm phái đến Trung Quốc gặp quan chức tình báo của Trung cộng là Hoàng Di - cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung cộng. Di nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt (tỉnh Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho bộ chính trị cộng sản VN, Lê Công Phụng cho biết lúc đầu Hoàng Di vẫn khăn khăn đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt “Beibu Bay” đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ sau đó Phụng, được bộ chính trị dặn trước là xin lại 6% của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam, Kết quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16,000 Km2 vùng vịnh cho Trung cộng.

7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Trần Đức Lương từ Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của tình báo Trung cộng. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và nhiều người trong quốc hội. Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng cs Trung Cộng trả cho số tiền là 2 tỉ USD được chuyển cho các quan chức cộng sản chia nhau.

8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16,000 km2 vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn Trung cộng về số tiền này... Sau cuộc gặp này thì Khải, Kiệt v.v... đã đồng ý với quyết định bán đất cho Trung cộng vì có phần chia chác trong số tiền này. Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung cộng đã bán vũ khí và hổ trợ cho cộng sản VN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung cộng dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Dốc, Cao Bằng... Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji, Zhu Rongji không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ USD sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về nước.

9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc bộ của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ USD.

Nếu bạn đọc chịu khó tìm hiểu lại “Những sự thật cần phải biết” từ phần 23 đến phần 28 và 16 sẽ thấy rõ những tên thủ phạm, đó là những: Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phan Văn Khải, Võ Văn Kiệt v.v...

Thứ hai, khi nói đến mất đất cho Trung cộng, chúng ta không thể nào quên việc mất đất tại Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục Lãm và những Boxit Tây Nguyên, Đông Đô Đại Phố, Đảo Gạc Ma, Đỉnh Lão Sơn v.v...

Không khó để thấy thêm những bằng chứng cho thấy cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn theo gương Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tiếp tục bán nước với những phát biểu tri ân giặc:

Đầu tiên là bản Tuyên bố chung 10 điểm “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc - Việt Nam” ký kết ngày 21/06/2013 giữa Tập Cận Bình tổng bí thư đảng cộng sản Trung cộng và Trương Tấn Sang.

Tiếp sau đó, để đền đáp “công ơn” hiểm độc trên của Trung cộng, Phùng Quang Thanh đại tướng ủy viên BCT / TW đảng, bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt đảng, quân đội Nhân Dân Việt Nam khẳng định tại buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập Giải Phóng Quân Trung Quốc tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam ngày 28/7/2012 như sau: “...Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam...”

Tiêu biểu cho tư tưởng chiến lược của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trần Đăng Thanh đại tá phó giáo sư - tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, thuộc học viện Chính trị Quốc Gia Bộ Quốc Phòng trong một buổi giảng bài tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây ngày 19/12/2012 đã phân tích: “... Trong 4 năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được quên...”.

Thứ ba, những bằng chứng mất biển đảo, đất đai khắp nơi đó xin được tóm tắt như sau:

- Tài liệu của CSVN, "Vấn đề Biên giới giữa Vệt Nam và TC" do NXB Sự Thật Hà Nội ấn hành năm 1979 xác nhận thác Bản Giốc của Việt Nam.

- Còn đây là sự thật về sự mất thác Bản Giốc mà các bạn hoàn toàn có thể kiểm chứng bằng hình ảnh và luận cứ:


Xin được trích lại một lời phát biểu của ông Mai Thái Lĩnh về vấn đề này như sau: 

"Ông Mai Thái Lĩnh: Bài viết của tôi vừa rồi có nhan đề là “Sự thật về Thác Bản Giốc” (Phần 1 và phần 2). Thật ra không phải tất cả đều là ý kiến của tôi, mà đây có thể nói là một công trình tập hợp tất cả những bằng chứng mà nhiều bài viết trước đây - nhiều người đã viết trong vòng khoảng chục năm nay, để chứng minh thác Bản Giốc hoàn toàn là của Việt Nam.

Trong đó đáng kể nhất là một nhà nghiên cứu ở Pháp, ông Trương Nhân Tuấn, một Việt kiều sinh sống ở Pháp. Ông đã sưu tập được rất nhiều tài liệu thành văn về quá trình ký kết và cắm mốc giữa hai bên -- giữa Pháp và nhà Thanh, vào cuối thế kỷ thứ 19.

Còn ở trong nước, tôi xin lấy ví dụ như ông Hàn Vĩnh Diệp, một đảng viên Cộng Sản và là một cán bộ hưu trí. Ông này đã từng 7 lần đến thăm Bản Giốc, từ 1958 đến 2006, và có lần từng ở lại một ngày một đêm ở bờ bắc của sông Quây Sơn. Địa điểm này bây giờ, theo như tác giả viết, đã thuộc về lãnh thổ của Trung Quốc rồi.

Tất cả những luận điểm của các tác giả nói trên vẫn còn một số điểm chưa thật chính xác, vẫn còn những lỗ hổng, khiến cho toàn bộ chưa có tính chất thuyết phục. Khó khăn lớn nhất là thiếu những bản đồ chi tiết để giải thích rõ trước đây đường biên giới như thế nào và hiện nay đường biên giới thay đổi ra sao. Nhất là cột mốc số 53.

Vừa rồi, trong quá trình nghiên cứu, tôi tìm được một số bản đồ. Đặc biệt là qua mạng internet tôi tìm được hai tờ bản đồ, tỉ lệ 1/50,000. Một là bản đồ do Quân đội Hoa Kỳ in năm 65 và một là của Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980. Hai bản đồ này về cơ bản thì địa hình rất giống nhau. Chỉ có khác là tờ bản đồ của Việt Nam thì Việt Nam đã Việt hóa và điều chỉnh một số điểm, nhất là địa danh. Quan trọng nhất là hai tờ bản đồ này có ghi rõ tọa độ địa lý và có những vòng cao độ, và trong đó đặc biệt là có ghi rõ các cột mốc nằm ở đâu. Cho nên tôi nghĩ rằng những người có trình độ về bản đồ học có thể căn cứ vào cái này để xác định tọa độ các cột mốc một cách hết sức chính xác.

Ngoài ra còn có một tờ bản đồ chi tiết về đường biên giới mới. Tờ bản đồ này sở dĩ có được là vào cuối tháng 10 năm 2011 có một đoàn nhà văn quân đội đã lên thăm đồn biên phòng Đàm Thủy ở gần thác Bản Giốc và chụp ảnh lại bản đồ chi tiết về đường biên giới này.

So sánh mấy tờ bản đồ với nhau thì chúng ta thấy rõ ràng là cột mốc 53 đã bị dời đi, đường biên giới bị sửa đổi, và do vậy nên ta mất đi một nửa thác chính của thác Bản Giốc. Cho nên có thể nói là với những tư liệu này chúng ta có thể chứng minh được thác Bản Giốc trước hoàn toàn là của Việt Nam.

Và tất cả những điều này rất ăn khớp với tất cả những tư liệu về địa lý trước đây của nước ta, cũng như ăn khớp với những điều mà trong bản Bị Vong Lục ngày 15 tháng 3 năm 1979 mà Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố trong cuốn sách “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” do Nhà Xuất bản Sự Thật xuất bản vào năm 1979. Có thể nói là tất cả rất có hệ thống và rất chính xác và đã chứng minh rằng thác Bản Giốc là hoàn toàn thuộc về Việt Nam.”


CSVN thừa nhận mất thác Bản Giốc: Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí, Thứ trưởng Ngoại giao Cộng sản Việt Nam là Vũ Dũng, cũng là trưởng đoàn đàm phán biên giới giữa Việt Nam và Trung cộng, đã tìm mọi cách để biện minh cho việc cắt đất dâng biển cho Bắc Kinh, và thú nhận đã để mất Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan.

Trong cuộc phỏng vấn, Vũ Dũng cho biết hơn 7 năm sau khi cắm cột mốc đầu tiên, Việt Nam và Trung Cộng đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc 1400 cây số biên giới. Trong cuộc đàm phán cuối cùng trong 3 ngày qua, vấn đề mấu chốt còn lại là khu vực thác Bản Giốc ở Cao Bằng và cửa sông Bắc Luân ở Quảng Ninh. Nay sau khi thương lượng, kết quả vẫn như cũ là tại thác Bản Giốc, hai bên đã thống nhất đường biên giới đi từ mốc 53 cũ. Thác Bản Giốc có hai phần, phần hoàn toàn về phía Việt Nam gọi là thác cao, nhưng lại là thác phụ vì lượng nước không lớn. Thác thấp là thác chính sẽ chia đôi, mỗi bên được một nửa.

Vũ Dũng nói rằng hai bên hứa hẹn sẽ không xây dựng các công trình nhân tạo trong phạm vi hẹp khu vực thác để giữ nguyên cảnh quan, vì đây là một thác đẹp có thể khai thác du lịch, và Trung cộng cũng hứa hẹn sẽ hợp tác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc. Hai bên còn hai cột mốc nữa ở thác Bản Giốc chưa cắm, đó là cột mốc trên thượng lưu ở mốc 53 và cột mốc ở ngay dưới chân thác.


- Và còn đây là những sự thật về mất Lão Sơn và những Đông đô đại Phố, người Tàu ở Hà Tĩnh v.v... mà chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng trong muôn vàn những sự thật về một Việt Nam “Đầy ắp Trung cộng”:

+ Sự thật mất Lão Sơn:

+ Hà Tĩnh phố Tàu:

Còn đây là một đoạn trích trên báo Pháp Luật - TPHCM (của chính cộng sản thừa nhận): “Trải dài 30 km dọc quốc lộ 1A qua các xã Kỳ Liên, Kỳ Long, Kỳ Thịnh (Kỳ Anh) xuất hiện hàng trăm quán cắt tóc, cơm, nhà hàng, khách sạn biển hiệu Trung Quốc, Đài Loan. Ông Nguyễn Văn Hùng, một người dân Kỳ Liên, cho biết: “Lao động Trung Quốc thường gợi ý nên lắp biển hiệu chữ họ và từ chối vào quán không có tiếng Trung. Vì vậy một số cửa hàng đặt biển hiệu toàn chữ Trung không có một chữ tiếng Việt, thậm chí không tiếp người Việt. Nhiều lúc tôi tự thắc mắc sao người ta lại biến đất Việt thành đất Tàu…!”


Và đây là nguyên nhân:


+ Boxit Tây Nguyên:

Với dự án khai thác bauxite Tây Nguyên (2001), hợp đồng cho thuê rừng đầu nguồn của 10 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, Trung Quốc đã nghiễm nhiên trở thành chủ nhân ông của những cao điểm chiến lược để khống chế Việt Nam và Đông Dương. 

Và còn rất, rất nhiều bằng chứng mà chúng ta có thể dễ dàng thấy: chúng ta đã mất biển đảo, đất đai trên khắp quê hương Việt Nam cho giặc Trung cộng.

3. Hán hóa đàn áp lòng yêu nước:

Để tiến hành việc Hán hóa và đàn áp lòng yêu nước của nhân dân ta, cộng sản đã đưa rất nhiều hình thức mà trong một vài bài viết không thể lột tả hết, do đó xin điểm lại một số điểm chính để bạn đọc có thể thấy hết bản chất bán nước của cộng sản Việt Nam.

Thứ nhất, về sách dạy tiếng Tàu, cờ sáu sao là những biểu hiện đầu tiên của sự nghiệp Hán hóa của Trung cộng mà cộng sản Việt Nam đã áp đặt. Các bạn có thể đọc được dễ dàng từ nguồn “báo đảng”:

Bảng chữ cái Trung Quốc in trên bàn học sinh

 Cờ sáu sao bán nước

Thậm chí ngay cả người dùng điện thoại di động cũng được thông báo bằng tiếng Trung cộng (Bài viết từ báo đảng: giaoduc.net.vn/Kinh-te/Thi-truong/Kho-hieu-thong-bao-tieng-TQ-chen-ngang-cuoc-goi-cua-MobiFone/294406.gd ).

(Tổng đài mobifone: 18001090 dùng tiếng Tàu nhắn tin)

Thứ hai, việc mở viện Khổng tử gần đây cũng là một bằng chứng chứng tỏ cộng sản đang dần bắt người Việt chúng ta thành tộc Hán.


Nhưng nó được bắt đầu từ đây:

Tờ nhật báo “Tiếng Dội” số 462, năm thứ 3, 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy năm Tân Mão, giá bán 1 đồng, của Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc, Tòa soạn, Quản lý 216 đường Gia Long Sài Gòn, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký như sau:

“ỦY BAN HÀNH CHÍNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
NĂM THỨ VII 
TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN 
SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC 

Hỡi đồng bào thân mến!

Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!

Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế?

Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối Âu Tây ấy - một cách viết rõ ràng có mau thật đấy - và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.

Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế - có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!

Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta!

Ta hãy bỏ nhà bảo sanh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu!!!!

Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v...

Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!

Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.

Trường Chinh

Tổng thư ký đảng Lao Động”.

Đây là một văn bản cho thấy đảng cộng sản chủ trương bán nước và Hán hóa dân tộc, kêu gọi làm chư hầu rõ rệt nhất cho Trung cộng. Việc này là một sự cho thấy rõ nét âm mưu Hán hóa của đảng cộng sản trong vô vàn hành động khác. Số báo Tiếng Dội này nằm trong Thư Viện tiếng Việt thuộc Bảo Tàng Viện Anh Quốc (British Museum - London). Bạn đọc hoàn toàn có thể kiểm chứng.

Thứ ba, việc đàn áp các cuộc biểu tình chống Tàu cũng là một biểu hiện cho thấy cộng sản bán nước toàn diện. Nếu không bán nước thì lý do gì ngăn cấm lòng yêu nước? Nhiều lắm những Nguyễn Văn Hải, Phạm Thanh Nghiên vv.. đã phải vào tù về lòng yêu nước của mình bị đảng cộng sản bắt vì “phản động”.

Vụ án blogger Điếu Cày

Vụ án Phương Uyên – Nguyên Kha

Đàn áp biểu tình yêu nước:

Không bán nước sao đàn áp người yêu nước?

II. Bán nước có hệ thống:


Những bằng chứng thực tế bán nước của cộng sản là rõ ràng, không thể chối cãi. Tuy nhiên nó được xuất phát bằng văn bản như thế nào? Trong khuôn khổ bài viết này sẽ nói về điều đó:

Thứ nhất, ngày 3.12.2001 trong “Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh “cụ thể là trong điểm thứ 6: “6- Hai bên xác định trong thế kỷ mới cần tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học-kỹ thuật và các lĩnh vực khác giữa hai nước theo phương châm bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả, bổ sung ưu thế cho nhau, hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển; tích cực khuyến khích và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên khai thác thêm thị trường hàng hóa của hai nước, tăng cường đầu tư và hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác kinh tế và kỹ thuật, thực hiện các dự án hợp tác đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội thiết thực.

Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ; và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông.

Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Trung Quốc trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới. Trung Quốc tích cực ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.”

(xem toàn văn tại website của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ: viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20011203000335 )

Tháng 11.2006, Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam chuyến nữa. Lần này thông báo viết: “Từng bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông…”

(Xem tại website của báo Sài Gòn Giải Phóng cộng sản: sggp.org.vn/apec/2006/11/71847/).

Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là Nông Đức Mạnh và đảng cộng sản đã bán nước cho Trung cộng thông qua dự án Bô Xít Tây Nguyên. Đó là bằng chứng không thể chối cãi của kẻ đứng đầu đảng độc tài cộng sản.

Theo một tài liệu được tiết lộ bởi Wikileaks thì Vụ Bauxit Tây Nguyên, Nông Đức Mạnh nhận 300 triệu USD - Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu USD: “Những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la...

Theo tin từ một thân hữu báo chí ở Norway (Na Uy), một điện văn trong số 250,000 mà WikiLeaks lấy được từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đã giao cho tờ báo buổi chiều lớn nhất Na Uy là tờ Aftenposten thì có một điện văn liên quan về Việt Nam nói đến dự án khai thác bô-xít nhôm ở Tây Nguyên.

Nội dung điện văn chính yếu là yêu cầu Bộ Tài Chính Hoa Kỳ giúp điều tra và xác minh một số giao dịch ngân hàng quốc tế. Cụ thể, theo điện văn này thì một nguồn tin trong giới ngân hàng Việt Nam cho biết kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la.

Cũng trong điện văn này, nguồn tin từ ngân hàng Việt Nam cho biết những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150 triệu đô la. Các chuyển ngân trong phần của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thì không đề cập đến ngân hàng nước nào”.


Mặc dù chưa kiểm chứng được bằng văn bản công khai của Wikileaks nhưng việc đàn áp biểu tình chống Trung cộng (Trong đó có chống khai thác Bo xit Tây Nguyên), lặng im xem các ý kiến phản đối của nhiều quan chức như Đặng Hùng Võ, nhóm 72 và nhiều tổ chức, cá nhân khác của cộng sản Việt Nam có thể xem là bằng chứng về việc cộng sản nhận tiền và cho giặc Tầu vào làm boxit tại Việt Nam. Một minh chứng đặc biệt cho việc này là TS Cù Huy Hà Vũ đã vào tù vì việc chống lại chủ trương cho Trung cộng khai thác Bo Xit Tây Nguyên. Người ta nếu không nhận tiền bán nước thì không thể bỏ tù một tiến sỹ Luật, con của một đại công thần cộng sản vì một lý do lãng nhách nào khác.

Thứ hai, theo tin từ blog “Hỏi và trả lời” có bài viết nội dung sau: “10 giờ sáng ngày 08-04-2013, Thiếu tướng Hà Thanh Châu, Chính Ủy Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng Nguyễn Đức Lâm) được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King County, Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn "xin tỵ nạn chính trị", sau 2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là "du học sinh" ở tiểu bang này.

"10 giờ sáng ngày 08-04-2013, Thiếu tướng Hà Thanh Châu, Chính Ủy Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng Nguyễn Đức Lâm) được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King County, Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn "xin tỵ nạn chính trị", sau 2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là "du học sinh" ở tiểu bang này.

Bốn ngày sau, qua trung gian của 1 "viên chức" cao cấp Hoa Kỳ, ông trao cho chủ bút Tạp Chí Foreign Policy Magazine một tập tài liệu "tối mật", có liên quan đến sự sống còn của nước Việt nam, dự trù sẽ đăng tải cuối năm 2013. Tập tài liệu này, do người anh vợ của ông, Thiếu Tướng H.T.T. làm Chính Ủy Tổng Cục 2, dưới thời Tổng Cục Trưởng Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, chép lại nguyên văn từ cuốn băng nhựa AKAI mang bí số ML887, ghi âm những cuộc họp bí mật của các nhà lãnh đạo Việt Nam: Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh và Trung Cộng:

Giang Trạch Dân (sinh năm 1926), Lý Bằng, Lương Quang Liệt, Diệp Tuyển Ninh, Dương Đắc Chí, Hứa Thế Hữu... tại Thành Đô, thảo luận các thỏa hiệp sát nhập nước Việt Nam vào lãnh thổ "Trung Quốc". Chúng tôi (tác giả bài viết này), hiện làm "bỉnh bút" cho tờ Foreign Policy Magazine, nên được phổ biến bằng Việt ngữ, giới hạn, trong vòng thân hữu.

Thật ra, các cam kết "giao nước Việt Nam cho Trung Quốc", đã được "ký" bằng "lời hứa danh dự " của ông Hồ Chí Minh với 2 Đại Tướng Tàu Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông vào năm 1926. Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ khẳng định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai:"Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa..."

Vấn đề là trong tài liệu Thiếu tướng Hà Thanh Châu cung cấp có đoạn:

Ngày 10-08-1987, ông Nguyễn Văn Linh (đang mắc bệnh ung thư) bay qua Trùng Khánh gặp Hồ Diệu Bang (1915-1989), Đặng Tiểu Bình (1904-1992= thọ 92 tuổi) bàn luận về các kế hoạch cắt đất, cắt biên giới và phác họa rõ ràng hơn. 1 chương trình "sát nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc" qua chiến thuật "Hòa Bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo, không ai có quyền biết đến" với thời gian 60 năm, phân ra làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 20 năm.

GIAI ĐOẠN I: Ngày 15-07-2020: QUỐC GIA TỰ TRỊ.
GIAI ĐOẠN II: Ngày 05-07-2040: QUỐC GIA THUỘC TRỊ.
GIAI ĐOẠN III: Ngày 05-07-2060: Tỉnh lỵ Âu Lạc.

Tỉnh trưởng vẫn là người Việt, đặt dưới quyền lãnh đạo của Tổng Đốc Quảng Châu”.



Thứ ba, Trung cộng đã cho thấy cộng sản bán nước cho họ nên Trung cộng đã ngang nhiên thực hiện các tuyên bố và hình ảnh cho thấy Việt Nam là một tỉnh của Trung cộng.

Trang mạng "Tiếng Hát Hữu Nghị" của CRI Đài phát thanh quốc tế Tàu cộng đăng bài viết "Khai mạc Đại hội Thể thao Truyền thống Dân tộc Thiểu số Trung Quốc lần thứ 9".


Theo trang tin tức của Trung Cộng “world.huanqiu.com” thì Nguyễn Chí Vịnh cũng cho rằng: “Việt Nam đã quyết định tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình Quốc tế, đã đề nghị Trung Quốc đến Việt Nam để tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình và giúp đỡ”.


Thế nào là cái gọi “Đề nghị Trung Quốc vào Việt nam tham gia gìn giữ hòa bình”? Đó chính là một tuyên bố: Rước voi về giày mả tổ của cộng sản Việt Nam!

Thậm chí Báo chí Bắc Kinh còn loan tải. "Chiến tranh ngoại giao Trung Quốc thắng lớn, chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc", "Đã thu phục một chư hầu đời nay chỉ cần 10 văn kiện hợp tác toàn diện".

Nguồn: Tân Hoa Xã.

Thứ tư, bán nước là chủ trương của cộng sản Việt Nam. Nhưng vấn đề là nó xuất phát từ đâu? Trong khuôn khổ bài viết này xin được trình bày rõ ràng nguồn gốc xuất phát của nó.

Như chúng ta đã biết công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là bề ngoài của vấn đề, nhưng có một thỏa ước khác của Hồ Chí Minh với Trung cộng mà chúng ta gần như không được biết đến từ năm 1953. Năm 1953 chính Hồ đã ký giao ước gửi Việt Nam cho Tàu. Giao ước của Hồ là lúc đó hồ chấp nhận Việt Nam là 1 quân khu ngang hàng với Quảng Châu. Thực chất là Hồ đã đích thân ký thỏa thuận giao Việt Nam dần dần bắt đầu từ HS-TS sau đó cả VN làm một bang của Trung cộng như dạng các nước nhỏ dưới thời Xô Viết nếu chiếm được toàn Việt Nam nhờ Trung cộng viện trợ quân, vũ khí... Thỏa thuận này ký năm 1953 tại Quảng Tây. Không ngạc nhiên sau đó 1958 thì giao HS-TS bằng công hàm PVĐ và tiếp sau...

Giao ước có tên “Ghi nhớ hợp tác Việt Trung” - số hiệu (VT/GU- 0212) ký ngày 12/06/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao như sau:

“Trước tình hình quân đội thực dân Pháp đang củng cố xâm lược Việt Nam. Đảng cộng sản nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đảng Lao động Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận thấy cần có sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau để giữ tình đoàn kết hai đảng, chính phủ và nhân dân hai nước như sau:

Điều 1: Chính phủ Trung Quốc sẽ đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu chi viện của quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn, chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân dân Việt Nam.

Điều 2: Đảng Lao động do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sáp nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc.

Điều 3: Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên ban theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết (Phụ lục đính kèm).

Điều 4: Trước đảng và chính phủ hai nước cần tập trung đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại chủ quyền lãnh thổ cho Việt Nam. Các bước tiếp theo của việc sáp nhập sẽ được chính thực thực thi kể từ ngày hôm nay 12/06/1953.

Điều 5: Chính phủ cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa theo thỏa thuận đã bàn giữa chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ Chí Minh (Phụ lục đính kèm).

….

Ký tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông”

Vì một số lý do an ninh, tôi không in được bản in của thỏa ước tối mật bán nước của Hồ cho Trung cộng mà chỉ là phần ghi lại nội dung chính của bản thỏa ước đó. Bản in này sẽ được cung cấp trong thời gian gần nhất có thể.

Nhưng có một điều tôi xin lưu ý: Có lẽ Hồ bị Lê Duẩn giam giữ tại K9 không hẳn đã phải vì lý do tranh giành quyền lực mà vì công hàm Hồ ký bán nước năm 1953. Chúng ta phỉ biết Duẩn là 1 tên cộng sản độc tài nhưng không bao giờ tán thành việc sát nhập 2 nước VN-TQ của Hồ. Và cũng có lẽ vì giao ước sát nhập 2 nước năm 1953 do Hồ ký này mà cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn đang tiếp tục con đường bán nước...!

III. Kết luận:


Cộng sản Việt Nam đã bán nước toàn diện cho Trung Cộng xuất phát từ Hồ Chí Minh cho đến nay. Chính vì vậy những hành động bỏ mặc ngư dân, đàn áp biểu tình, cho người Tàu vào Việt Nam công khai không visa là điều quá sức dễ hiểu. Chúng ta cần phải cho người dân thấy điều này để chúng ta nhanh chóng đứng lên lật đổ đảng cộng sản nếu không muốn con cháu của chúng ta trở thành nô lệ cho Trung cộng.

Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua 4000 năm văn hiến, chúng ta cũng đã có nhiều anh hùng như Trần Hưng Đạo, Quang Trung v.v... đã lãnh đạo dân tộc ta đánh đuổi ngoại xâm. Ngày nay băng đảng cộng sản Việt Nam chính là những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc trong thời đại mới. Đó là một sự thật không thể chối bỏ rất đau xót mà chúng ta phải vượt qua! Hãy can đảm lên hỡi những người con Việt Nam! Tương lai phải thuộc về chúng ta, chính nghĩa thuộc về chúng ta!
 
6/11/2013