Văn Hóa và Nhân Quyền trong trào lưu Cộng sản
Hà Sĩ Phu
(Tầm Văn hóa thấp của trào lưu Cộng sản) [1]
Đôi lời viết thêm năm
2013
Thực tiễn 18
năm qua chỉ cung cấp thêm những ví dụ ngày càng phong phú minh chứng cho bài
viết này. Dân chết trong tay công an, sự đàn áp kèm thêm màu sắc “còn đảng còn
mình”, màu sắc côn đồ và thú tính tình dục... là những biểu hiện sa đọa mới của
một hệ thống quyền lực văn hóa thấp, thiếu tự tin, thiếu quân tử, thiếu chính
danh và liêm sỉ.
Sự đàn áp, vi phạm nhân quyền luôn song
hành với sa đọa văn hóa
như một cặp bài trùng, đương nhiên làm gia tăng sự đấu tranh của dân chúng, lập thành ba mặt tương
sinh của thực tiễn xã hội, như được đặt ra ngay từ đầu bài viết.
- Gia tăng đàn
áp, vi phạm nhân quyền không phải là phương thuốc giữ ổn định xã hội, mà ngược
lại, có nâng cao văn hóa cai trị và thực sự tôn trọng nhân quyền mới có một xã
hội ổn định bền vững.
- Trên cái nền
thấp về văn hóa không thể có giá trị cao về nhân quyền. Trào lưu Cộng sản mới
chỉ thỏa mãn những nhu cầu ở tầm thấp về văn hóa không thể làm nền cho sự phát
triển cao về nhân quyền. Bởi đặt
“đảng quyền” trùm lên trên nhân quyền và dân quyền nên hệ thống Cộng sản quốc tế
tất yếu phải sụp đổ. Dẫu cố gắng cải tổ bao nhiêu ở trên ngọn cũng không
thể bù đắp cho những khuyết tật từ trong gốc rễ.
Một nước chưa
ra khỏi quỹ đạo Cộng sản (tức chế độ Phong kiến mới, Phong kiến biến tướng)
không thể có vị trí cao trong nền Nhân quyền của thế giới văn minh. Còn nhớ
trong chế độ Phong kiến cũ ngày trước cũng đã có những chức “lý trưởng mua”,
“chánh tổng mua”... nhưng đó chỉ là những tước vị để trang trí cho những anh
trọc phú mua danh mà thôi. Song, mua danh cũng tốt, vì đã có chút danh cũng
không thể dễ dàng làm những điều ô danh như trước.
H.S.P
________________________
1- Quan hệ giữa Tranh đấu, Nhân quyền và Văn hóa
Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. "Quyền Con người" ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi "Quyền Con người" một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về "Quyền Con người", con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn.
Đã có nhiều
cách tiếp cận để phân loại Quyền Con người, nhưng cách tiếp cận sáng tỏ nhất cho
nhận thức là tiếp cận từ quan điểm Tiến hóa. Khi từ bầy đàn chuyển thành xã hội,
Con người cũng chuyển từ cuộc sống Sinh vật sang cuộc sống Con người, rồi từ
chưa văn minh đến văn minh hơn... Càng văn minh, nội dung tính"Người" càng mở
rộng, thì "Quyền Con người" cũng do đó được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì
càng có tính VĂN HÓA bấy nhiêu.
Với cách tiếp
cận Tiến hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn hóa, nội dung Nhân quyền có
thể và cần phải xếp thành 3 bậc:
a) Quyền làm
Người trước hết là QUYỀN ĐƯỢC SỐNG, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như
một sinh vật, tức quyền được sống
và tự do về thân thể. Tạm gọi là "NHÂN QUYỀN BẬC 1".
b) Tiếp sau đó
là QUYỀN ĐƯỢC "ẤM NO", nói rộng ra là quyền được chia sẻ những tiện nghi vật chất với những người
trong cộng đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy
mang tính vật chất, nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài
người.
Quyền này tuy
đã có tính VĂN HÓA, nhưng còn thấp (Văn hóa theo nghĩa rộng, là tổng thể các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy, trong sự tương tác
với tự nhiên và xã hội.). Tạm gọi là" NHÂN QUYỀN BẬC 2"., phần nào tương đương
với "quyền Kinh tế".
c) Cao nhất là
những quyền của "Con người văn minh", là những quyền mang giá trị "tinh thần",
gồm các sinh hoạt tư tưởng, khoa học, văn hóa, nghệ thuật... liên quan đến các
nhu cầu hưởng thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị tinh thần, và nhu
cầu làm chủ xã hội. Tạm gọi là"NHÂN QUYỀN BẬC 3" (hay QUYỀN TỰ DO-DÂN
CHỦ). Đây là những quyền có tính VĂN HÓA cao.
(Tất cả những
khái niệm vẫn được dùng trong Quyền Con người như quyền kinh tế-xã hội, quyền
chính trị, quyền dân sự, quyền văn hóa..., rồi quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc... vân... vân... đều mang những nội dung không thể tách biệt
rành mạch, chỉ nên hiểu một cách linh động, qui ước thôi.).
2- Vị trí của phong trào CỘNG SẢN trong tiến trình phát
triển VĂN HÓA và QUYỀN CON NGƯỜI
Ba bậc thang
nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau, song về cơ bản nếu
chưa có nhân quyền bậc thấp thì chưa thể có nhân quyền bậc cao hơn, ví dụ chưa được sống và được ăn
thì chưa thể nói đến quyền tự do ứng cử!
Chưa có bậc
thang nào thì phải đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát triển không đều,
nên cả 3 cấp Văn hóa, 3 cấp Nhân quyền, và do đó 3 cấp Tranh đấu luôn cùng có
mặt trên thế giới. Trong khi người này, ở đây, đang đòi quyền tự do tư tưởng, tự
do ứng cử (nhân quyền bậc 3) thì người kia, ở kia còn phải đòi quyền được làm
việc và trả lương công bằng (nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có
người chỉ mong đòi cho được quyền tự do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền
bậc 1).
Trong bài
"Đôi điều suy nghĩ của
một công dân" trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm
"Quan hệ dọc" và "Quan hệ
ngang" trong sự tiến hóa xã hội. Một "Hình thái Kinh tế-Xã hội" tốt hay xấu
cho thấy mối quan hệ dọc của xã hội ấy trong dòng
thời gian, là tiến hóa hay thoái hóa. Nhưng không phải mọi thành viên trong xã
hội đều được hưởng (hay bị chịu đựng) mức độ cao hay thấp của xã hội ấy. Có sự
không đồng đều hay sự lệch pha văn minh giữa các quốc gia đương thời, thậm chí
giữa các nhóm người trong cùng một xã hội, gây nên áp bức bất công, đó là mối
quan hệ ngang trong không gian địa cầu giữa những người đang sống. Quan hệ dọc và ngang độc lập với nhau
nhưng tác động tương hỗ tới nhau.
Thế kỷ 18-19,
con tàu Văn minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh trên khắp thế giới,
khiến cho khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa. Trong "quan hệ dọc", đây là sự
tiến bộ rất lớn của xã hội, nhưng trong "quan hệ ngang" nó tạo ra sự mất công
bằng ghê gớm. Một loạt ông chủ thành tỷ phú trong khi vô số người khác bị bần
cùng hóa. Hình thành một "giai cấp Vô sản" đông đảo, chẳng những bị bần cùng hóa
mà bị đe dọa cả sự sống còn. Được trang bị bằng lý luận Mác xít, họ cùng với
những người lao khổ khác trở thành lực lượng trung tâm của phong trào Cộng
sản.
Từ một mức sống
thấp như vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần, họ đứng lên đòi Quyền Con
người, thực chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và Quyền được "ấm no", tức là
tranh đấu cho bậc thang thứ nhất và thứ 2 của thang Nhân quyền, ứng với tầm Văn
hóa thấp, như trên đã trình bày.
(Có thể họ có
ước mơ xây dựng một cuộc sống Cộng sản rất cao sau này, nhưng đấy lại là chuyện
khác, chuyện ấy không thuộc phạm vi "tranh đấu" và "đòi". Ai ước mơ gì cứ việc
ước mơ, nhưng không ai có thể đòi xã hội cái sản phẩm mà chưa ở đâu có, lại càng
không có quyền bắt người khác phải ước mơ như mình.)
Nội dung phong trào Cộng sản gồm 2 mặt:
* Nhu cầu có
tính chất khách quan đối với trào lưu "Cộng sản" là một cuộc đòi "Quyền Con
người tối thiểu" cho những người cùng khổ, tức là để giải quyết mối "quan hệ
ngang" về sự công bằng, trong đó có sự công bằng giữa các dân tộc. Ở thời điểm
lịch sử này phong trào Cộng sản đã có những đóng góp xuất sắc.
* Còn việc muốn
tạo ra một xã hội mới khác hẳn, văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp tiến hóa
trong "quan hệ dọc", thì đây là một hoang tưởng, phi khoa học. Hoang tưởng này
tuy có cung cấp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh trên kia, nhưng không được
"lịch sử giao phó" nên lịch sử cũng không cung cấp những tiền đề, do đó chẳng
những không thành sự nghiệp gì mà trái lại còn gây ra những điều kỳ quái, mà bây
giờ "lịch sử" đang đòi hỏi, đang “giao nhiệm vụ” phải sửa chữa, xếp dọn lại tất
cả những ngổn ngang bê bối do ảo tưởng Cộng sản gây ra.
Tóm lại
Cộng sản là một trào lưu đấu tranh
cho Nhân quyền tối thiểu, lật đổ vì nhu cầu sinh
tồn, nhưng còn ở tầm Văn hóa thấp, có lý và chỉ có ích cho những xứ sở còn chậm
phát triển. Giai đoạn ”phá” thành công nhưng giai đoạn “xây” thất bại nên kết
quả cuối cùng là tác hại, gây khó cho con đường phát triển.
Muốn hiểu điều
này, cần phân biệt giữa tính chính đáng hay tính bức thiết của một phong trào
tranh đấu với tầm văn hóa của phong trào ấy. Thật dễ hiểu, cuộc tranh đấu cho
những nhu cầu càng ở tầm sinh tồn sinh vật bao nhiêu thì càng bức thiết, càng
chính đáng bấy nhiêu, bởi không có nó thì xin đừng đòi hỏi nhu cầu Văn hóa gì
hết. Tuy nhiên, tính "chính nghĩa" không đồng nghĩa với tầm cao Văn hóa. Nổi dậy
chống bất công là chính đáng, nhưng sau đó xây dựng thế nào là điều quan trọng
hơn.
Điều thứ hai
cần đề cập là quan hệ giữa Chiến thắng và Văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến
thắng sau cùng là Văn hóa, nhưng trong một trận cọ xát
trực tiếp thì thường xảy ra điều ngược lại: càng có tầm văn hóa thấp càng dễ
chiến thắng, cái bạo tàn dễ thắng cái văn minh. Quy luật này thấy rõ ngay
trong đời sống hàng ngày. Cũng dễ hiểu vì ở tầm văn hóa cao người ta bị hạn chế
bởi rất nhiều điều không thể làm nên tự mình trói tay mình còn kẻ văn hóa thấp
thì có thể giành chiến thắng bằng mọi giá, có thể “phóng tay phát động quần
chúng” dù có phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn... Chủ nghĩa Cộng sản sẵn sàng hy
sinh cả 100 triệu người thì chiến thắng nhất thời là dễ hiểu.
Tính Văn hóa
thấp của "Quốc tế" Cộng sản được in dấu ở tất cả mọi mặt của phong trào ấy. Chỉ
cần dẫn ra mấy dấu vết đã in vào bài "Quốc tế ca" cũng đủ chứng
minh:
Về lời ca để
hiệu triệu và tập hợp lực lượng: "Vùng lên, hỡi các nô lệ
ở thế gian! Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...". Những đối tượng này là ở
bậc thang đáy của xã hội. Xã hội phải bức thiết dành hết tình cảm cho họ, phải
bức thiết đem lại ngay quyền sống cho họ, nhưng trào lưu tranh đấu mà do họ
"lãnh đạo" thì chỉ có thể là một trào lưu ớ tầm văn hóa thấp, tương xứng với họ,
chắc chắn sẽ bị kẻ gian lợi dụng, là điều quá hiển nhiên.
"Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình" là động cơ thật
của cuộc tranh đấu. Biện pháp giải quyết là "phá sạch tan
tành", "quyết phen này sống chết mà thôi" để "tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt" như Chủ nghĩa đã chỉ
rõ.
Cả đối tượng,
mục tiêu lẫn biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp.
Bây giờ nhiều
người trong đội ngũ Vô sản ấy đã thành đại hữu sản do tước đoạt. Họ sẽ nghĩ sao
nếu những người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước ta bây giờ cũng theo chủ
nghĩa Mác hô hào nhau lặp lại một phong trào tước đoạt lại như thế? Hẳn họ phải
lên án đó là cách làm vô văn hóa chứ gì nữa?
Nếu thấy cần
làm lại những bài ca, thì đáng lẽ phải làm lại bài "Quốc tế ca" này chứ không
phải làm lại Quốc ca như đã từng chủ trương! Sản phẩm nào của phần "Dân tộc" nói
chung là lành mạnh, chỉ những sản phẩm của phần "cách mạng" "giai cấp" mới là
cái cần được làm lại!
Nhưng nói vậy
thôi. Cái đáng phải làm lại nhất là “làm lại” toàn bộ Học thuyết, mà tính khoa
học của nó đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi khi ấy người ta nghĩ rằng
"đấu tranh đây là trận cuối cùng". Cốt sao lợi quyền
về tay cái đã. Ta đấu tranh rồi, ta tước đoạt được rồi thì trường đấu tranh từ
đây khóa sổ, không ai được đấu tranh lộn xộn gì nữa, từ đây là hợp lý rồi, không
phải "xét lại" nữa, ai chống lại ngai vàng mà ta cướp đoạt thì quy thành phản
động hết?
Liệu như thế có
phải là "qua cầu rút ván" chăng? Tầm Văn hóa như vậy là cao hay
thấp?
Ý tưởng lấy Búa
và Liềm làm biểu tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu biểu cho Thời đại cũng
là một cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể nào khác được, khi trào lưu "Tiến
hóa" ấy lấy động lực ở người cùng khổ, lấy điểm tựa ở sự bần cùng?
Ở một cuộc
tranh đấu có tầm văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt (tương đối) với
cái tốt hơn, tức là đấu tranh trong hòa bình, không có tình huống"một mất một
còn".
Cuộc đấu tranh
giai cấp "một mất một còn" luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng
mua chiến thắng bằng cách hủy diệt mội trường (như "dẫu
phải đốt sạch cả dẫy Trường sơn"!), hủy diệt những công trình văn hóa (như
chính sách tiêu thổ kháng chiến), và hủy diệt con người ("đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng"," Tổ quốc hay là
chết", và cả mấy triệu người Việt đã thành vật hy sinh cho một cuộc
chiến...) thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là những trào lưu
có tính văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ
thấy những chiến thắng ấy thật đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã
tự hào vì cống hiến cả chồng và 7-8 người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng
mình hơn là kính phục.
Ở tầm văn hóa
cao, người tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến thắng của mình mà quên
những giá trị chung của xã hội. Ở tầm văn hóa cao thì sự tranh giành quyền lãnh
đạo sẽ xảy ra giữa những người đã ở tầm cao, có tài sản và sự nghiệp để bảo
hành. Trong thực tế, không ai dám chơi với những kẻ "nếu
mất, nó chỉ mất cái xiềng, còn nếu được thì lại được cả thế giới" (!). Vì
trong trường hợp ấy, con người không còn gì để đắn đo cân nhắc, nó chỉ có một
con đường là lao vào cuộc sinh tử (quyết phen này sống chết mà thôi!), và sẵn
sàng "phá sạch tan tành" tất cả những gì cản
đường.(Ta nhận rõ tính kém văn hóa của những người ấy nhưng không quy lỗi cho
họ!). Họ sẽ tuyệt đối hóa mục tiêu "Thiện" một cách chủ quan và sẵn sàng làm mọi
việc Ác mà không hề phải cắn rứt lương tâm. Họ sẽ quyết định những điều hệ trọng
một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng của họ cũng như sinh mạng của cả dân
tộc!
Một sức mạnh
như thế rất khó cho việc chống lại, nhưng lại rất dễ cho việc lợi dụng! Xta-lin,
Mao trạch Đông... đã là “những nhà lợi dụng vĩ đại”,
và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò!
Nhân đây, tôi
xin "mở ngoặc" để nói đôi lời về những tác phẩm viết về chiến tranh.
Người ta thấy
"Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh là không chấp
nhận được. Quan điểm Cộng sản không cho phép được buồn trong chiến tranh, trên
đường ra trận phải vui như trẩy hội (!). Bây giờ hãy ví dụ: gia đình ta đang
sống yên ổn thì bị cướp. Đương nhiên cả nhà phải đứng dậy đánh cướp, bỗng dưng
ta thành những kẻ phải giết người để tự vệ. Giả sử ta đã giết sạch được cả mười
tên cướp chết nhăn răng ra, thì khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy ta có nên kể
lại một cách hứng khởi, vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm "buồn" trong đời?
Tôi nghĩ chẳng những phải biết "buồn" mà suốt đời còn phải tự day dứt. Càng phải
day dứt hơn nếu đã hy sinh mất những người thân và những người ưu tú. Càng có
văn hóa càng thấy day dứt. Bởi mình còn tồi, còn kém nên có nhiều cuộc chiến
tranh bất đắc dĩ phải làm, nhưng không có cuộc chiến tranh nào lại đáng tự hào
cả.
3- Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản
Mỗi Thời đại có
Văn hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp "Cách mạng", với bạo lực quần chúng và
tận dụng thời cơ, người Cộng sản có thể cướp chính quyền ngay tức khắc, nhưng
văn hóa thì không cướp được; có xây dựng nổi nền Văn hóa đặc trưng của mình hay
không, điều ấy mới xác định vị trí của mình trong lịch sử là có thật hay không.
Thành bại cuối cùng là ở Văn hóa.
Hãy nhìn lại
xem việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành bại ra sao?
3a- Chiến dịch xây dựng "Con người
mới"
- Suốt từ những
năm 60-70, khi ấy tôi dạy học nên được chứng kiến một chiến dịch dai dẳng và vất
vả để cố xây dựng cho được hình mẫu "Con người mới Xã hội Chủ nghĩa". (Vì bác Hồ
nói: Muốn xây dựng chủ nghĩa Xã hội phải có những Con người Xã hội chủ
nghĩa.)
Sách giáo khoa,
tài liệu tuyên giáo, truyện ngắn, truyện dài, sân khấu, điện ảnh, báo chí, phong
trào Đoàn Thanh niên Cộng sản, Đội Thiếu nhi Bác Hồ... xây mãi mà không mẫu nào
có thể đứng được. Nếu không bám víu vào những phẩm chất của “con người cũ truyền
thống” như lòng yêu nước, lao động cần cù, chịu đựng gian khổ hy sinh, thương
người hoạn nạn... thì "Con người mới" không còn có xương có thịt gì
cả.
Cái chất "mới"
và "xã hội chủ nghĩa", chất "giai cấp", chất "Đảng", chất "thời đại" tô vẽ mãi
vẫn cứ mờ nhạt, khô cứng, thậm chí (nhiều nhà văn, nhà báo kể cho tôi nghe) khối
lời nói anh hùng, nhân vật anh hùng là do ta bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người
mới giả vẫn không địch nổi cái đội ngũ hùng hậu của những “con người mới thật”,
tệ hại, bằng xương bằng thịt cứ tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số
lượng và chủng loại, càng điển hình và độc đáo về phẩm chất.
Học dốt, bị cô
giáo cho điểm kém, bèn lừa lúc cô một mình trong lớp, dùng dao dọa, bắt cô đứng
lên bàn, tụt quần ra, thế thôi!... Con muốn lấy tiền của bố, bèn cắt tiết bố
hứng vào chậu hẳn hoi rồi cho lợn ăn. Chồng băm thịt vợ cho vào chum nước rồi
dùng dây may-xo để nấu. Công an bảo vệ trên cầu Chương dương Hà Nội cũng cướp
của, giết người (mà có cấp chính quyền còn định bao che)... vân vân... Báo Công
an thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng nhiều độc giả nhất vì chuyển tải được cái vốn
"người tốt việc tốt " rất phong phú ấy!.
Xe khách đang
chạy, bỗng trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc phục, cầm "dùi cui" đàng
hoàng, đưa còi lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: Hôm nay làm ăn không được,
mày "thí" cho chúng nó 5 đồng thôi! rồi quay sang cười với tôi: bây giờ đâu cũng
thế cả, bác đừng cười! Anh phụ lái giở cái giấy phép ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn
vào giữa, hơi thò ra một tý để ai có tình ý thì nhìn thấy, rồi nhảy xuống để
trình...! Xe lại chạy ngay chẳng cần kiểm tra.
Giữa giờ, một
anh bạn đến thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang "giờ chính quyền" mà đi được à? Anh bạn
tôi cũng cười: "Mình không có tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ăn cắp
thời gian bây giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!. Tôi bảo: Sao bây giờ cậu ăn
nói "mất lập trường" thế? Anh lại bô bô: Mình là "con người cũ" nên cứ nói toẹt
ra, chứ có phải "con người mới" đâu mà vòng vo!
Trong một cục
diện xã hội như thế, "con người mới" lý tưởng nào có thể sống được?
Có thể nói 90
phần trăm tác phẩm văn học được giải trong những năm gần đây là tác phẩm "phản
diện"mang tính phê phán, và những "điển hình" xây dựng thành công là những điển
hình về mặt trái của Con người và xã hội. Người ta bảo: hãy quên chuyện "Con
người mới" đi! hãy tìm lại những "Con người cũ" tử tế. Nhiều bài báo viết: Bao
giờ cho đến Ngày xưa?
Rất nhiều cuộc
"Về nguồn" được tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ "Về nguồn", đua xe đạp "Về
nguồn"! Nào thi học sinh giỏi theo nghi thức thời cổ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ!... Chưa biết trong đục thế nào, và mỗi người "Về nguồn" với một ý đồ khác
nhau, nhưng người ta đua nhau "Về nguồn", vì ai cũng thấy trước mắt mình nhiều
cái "mới" nhăng nhít quá! Có lời bình rằng: Trước đây bỏ "nguồn" để đi tìm Thiên
đường Cộng sản, nay lại hò nhau Về nguồn, thật như đèn cù!
Còn đang cố tìm
một mẫu người "Trung với Đảng, Hiếu với Dân" thì đùng
một cái, một ông cán bộ Cộng sản khá cao cấp là Thân Trung Hiếu, đầy đủ cả
"Trung" cả "Hiếu", làm tiêu luôn của Dân 48 tỷ đồng! Dân bảo: Tay này chắc là
"Trung", nhưng mà bất "Hiếu"!
Truyện "Con người mới" kể cả ngày không hết. Không gì bê bối
hơn một nền Văn hóa như thế.
- Nói đến Văn
hóa Vô sản không thể quên nước Cộng sản lớn, quê hương của "Con người mới" Lôi
Phong, của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy triệu Hồng vệ binh vô học
choai choai, dám đốt hết sách vở và lôi cả những nhà Văn hóa ra đấu tố, quét sơn
đỏ khắp người rồi lôi đi diễu trên đường phố, với hàng đoàn xe tăng đi nghiến
nát những em sinh viên nhịn đói để đòi dân chủ, với công đào tạo ra những tên
lính Pôn pốt ở tuổi chưa ráo máu đầu đã một mình dùng cuốc đập chết cả ngàn
người trong tay!...
Những hiện
tượng "đại văn hóa" ấy mà không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng? Hay do
Đế quốc Phong kiến để lại? Hay chỉ có thể từ Văn hóa Vô sản, Văn hóa Đảng mà
ra?
Không phải ngẫu
nhiên mà cái pháo đài Cộng sản nổi tiếng giáo điều với quan điểm "Đế quốc Mỹ là
con hổ giấy", "gió Đông thổi bạt gió Tây"... lại cũng chính là nơi sản sinh ra
quan điểm "đổi mới" thực dụng nổi tiếng" Mèo trắng mèo đen" không quan trọng,
miễn là"bắt được chuột"! Có thể coi hai thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy
(từ quá giáo điều sang quá thực dụng) là quan hệ bù trừ, nhân quả, Nhưng nghĩ
lại thì thấy hai thái độ ấy cũng từ một gốc mà thôi, đều phản ánh cùng một bản
chất duy lợi của tầng lớp cầm quyền, cùng một xảo thuật tuyên truyền, và cùng
một tầm văn hóa.
Khi trước giáo
điều bao nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với Tàu cũng "một mẹ sinh ra"
cả!
Tóm lại, khi
mẫu người Phong kiến đã hết thời thì phải hướng con người theo những giá trị phổ
quát của thế giới hôm nay: con người của văn minh công nghiệp và tin học, của
kinh tế thị trường, của dân chủ pháp trị. Nếu cứ chập chờn, nghĩ đến một thứ "con người mới xã hội chủ nghĩa" giả định nào đấy, thì
kết quả là dứt con người ra khỏi văn minh nhân loại, nếu không ù lỳ như những
bóng ma ảo tưởng cổ lỗ lỗi thời thì lại thành những kẻ lừa đảo, lưu manh... rất
hiện đại!.
3b-Thiếu Văn hóa từ gốc
Một nền văn hóa
có thể bị băng hoại dần dần do những sa sút của chính trị và kinh tế.
Nhưng nền Văn
hóa Vô sản tự nó đã có những khiếm khuyết, ngay cả lúc còn thịnh
trị.
* Nền Đạo đức
Vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ Trung, Hiếu, Đức, Tài, Lễ,
Nghĩa, đến Cần Kiệm Liêm Chính, đến Chính tâm tu thân, đến kế hoạch trăm năm
trồng người, đến điều lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, đến Dân là gốc, coi
cán bộ là nô bộc của dân, dĩ bất biến ứng vạn biến... tất cả đều đã có trong
sách vở Nho giáo.
Duy có chữ QUÂN
TỬ là cái tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn.
Các nhà lý luận
viện cớ rằng Quân tử là tầng lớp bóc lột nên ta không học.
Nếu những phạm
trù NHÂN, THIỆN, ĐỨC còn mang tính lý tưởng, hoặc còn chung chung, trừu tượng,
thì phạm trù QUÂN TỬ đưa thiện-ác vào tới con người cụ thể, tới tình huống cụ
thể, thái độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy là một cuộc thử thách quyết liệt:
anh nói anh "thiện", anh "đạo đức" thì anh thể hiện ra đi, quyết định lấy một
thái độ ứng xử đi; hoặc là hành động một cách"QUÂN TỬ", hoặc là hành động một
cách "TIỂU NHÂN"!
Những bài học
về QUÂN TỬ thiết thực lắm. QUÂN TỬ rất gần với TRƯỢNG PHU và THƯỢNG VÕ. Người ta
thua trận, người ta nằm trong tay anh rồi, anh làm gì người ta cũng phải chịu,
thì anh sẽ đối xử thế nào? Hoặc là anh học người xưa, đem tất cả sổ sách thù hận
đốt đi để coi nhau như anh em, hay anh lục đống hồ sơ cũ ra, bới lông tìm vết để
phân biệt đối xử?.
Anh có mọi
quyền lực trong tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì anh có nhường
một tờ báo, một diễn đàn cho những người khác trình bày tiếng nói của họ hay
không?
Anh nắm hết mọi
sức mạnh trong tay, muốn bày đặt cái gì cũng được, thì anh có dành cho Nhân dân
một Hội đồng thật sự để giúp anh thu thập tiếng nói của Dân, hay anh lại tìm
cách đưa Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy sang phụ trách luôn "Hội đồng Nhân dân"
cho nhất quán?
Anh có quyền ký
một chữ thì người khác có nhà ở, vậy anh có thắng nổi cái lòng tham của con
người, dám trọng nghĩa khinh tài mà từ chối mấy lạng vàng đút lót để dành cái
nhà ấy cho một thầy giáo nghèo được không?
Người Cộng sản
thích chơi trò "Đạo đức" nhưng không dám chơi trò "Quân tử", thiệt đến quyền lợi
sát sườn ngay!. Mặc dù trên đời cái gì cũng có thể làm giả nhưng thực tế cho
thấy Đạo đức giả thì dễ nhưng Quân
tử giả thì khó hơn nhiều. Chủ nghĩa Phong kiến so với ngày nay thì vô
cùng tồi tệ, nhưng thời thịnh trị nó đã cung cấp cho loài người rất nhiều Người
Lớn, là nhờ có một tinh thần QUÂN TỬ. Dùng Đạo đức, con người vẫn có thể lừa cả
mình, nhưng khi trong lòng đã cất lên tiếng QUÂN TỬ thì con người phải đối diện
với chính lương tâm nó, khó trốn tránh hơn.
* QUÂN TỬ thì
phải CHÍNH DANH! Có người bảo "Chính danh" là thủ đoạn của bọn thống trị nhằm
phân biệt ngôi thứ. Không đúng! Công bằng hay không là ở chỗ "định danh", định
nội hàm của Danh, chứ khi định Danh rồi thì phải theo Danh mà làm! "Danh" một
đàng "Thực" một nẻo thì đại loạn.
Trước tình hình
giáo dục lộn xộn bát nháo phải kêu gọi “Trường ra trường, lớp ra lớp, thày ra
thày, trò ra trò” là rất đúng, là phải "chính danh"!.
Nhạc trưởng
cũng phải ra Nhạc trưởng! Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh đứng ra giữa sân
khấu mà bắt nhịp cho mọi người trông thấy, chứ không thể chơi trò "giật dây" từ
trong hậu trường, hay đứng lấp ló ở chỗ "cánh gà" sân khấu, chờ xem nếu được
hoan hô thì ra nhận hoa, mà bị la ó thì chuồn thẳng, tìm mãi chẳng biết ai vừa
chỉ huy!
Anh muốn chỉ
huy cũng được (cứ cho là "được" đi), nhưng nếu chỉ "hiến định" sự chỉ huy, mà
không "luật hóa" sự chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ huy? Mà phải là luật của
Dân, chứ ĐCS tự làm luật cho mình thì đâu cũng hoàn đó. Nếu có "luật lãnh đạo"
cho nghiêm minh (lãnh đạo kém, gây thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì chắc Đảng sẽ
tự xin rút điều 4 trong Hiến pháp. Có luật ấy thì khối lãnh tụ Cộng sản đã đi tù
lâu rồi, không tin cứ đưa ông Lê đức Thọ ra Tòa án của Nhân dân làm ví dụ thử
xem.
Trong dân mình
có thói khôn vặt: nói thế mà không phải thế! Nói "dzậy" mà không phải "dzậy" nên
khi gặp chủ nghĩa Mác Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều thích "nhân danh" nhưng
không thích CHíNH DANH.
Trong cuốn "Đề cương giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng chủ nghĩa
Xã hội trong thời kỳ quá độ" (tức Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có
câu: "Nguyên tắc thứ nhất nói về xây dựng Xã hội chủ
nghĩa, tuy không dùng chữ Chuyên chính Vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn quán
triệt bản chất Chuyên chính Vô sản" (Sđd. trang 15). Thế thì còn đâu là
chính danh?
Có lẽ do quá
quen với "phương pháp luận" Mác xít nên người viết câu ấy không cảm thấy tính
TIỂU NHÂN trong đó. Thử hỏi tại sao lại thế: nếu thấy Chuyên chính Vô sản là hay
thì phải công khai bảo vệ luận điểm ấy, nếu thấy là dở thì phải thực tâm từ bỏ,
chứ ngoài mặt nói với dân không có Chuyên chính mà nội bộ Đảng thì lại dặn nhau:
Cứ Chuyên chính mà làm! Thì chẳng Quân tử tý nào?
Điều nói dối ấy
đã làm dân mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy chính là sự dạy nhau
nói dối, và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với Đảng: Nghị quyết nói thì cứ
để Nghị quyết nói, mình có cách "vận dụng" của mình, Nghị quyết "dzậy" mà không
phải "dzậy"!
Người
Việt nam muốn ra người Quân tử đã khó, người Cộng sản Việt nam muốn ra người
Quân tử lại càng khó hơn. Bởi thế tôi thật kính trọng thái độ Quân tử của tướng
Trần Độ khi ông viết cho Đảng những dòng sau đây: "Cần
phải dứt khoát chọn một trong hai tư tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện Chuyên chính
Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh (liệu có dám ngang nhiên như vậy
không-HSP bổ sung). Hoặc thực hiện một Nhà nước Dân chủ pháp quyền, một Nhà nước
của Dân, do Dân, vì Dân. Không thể cứ nói nửa nọ nửa kia
nhập nhằng."
* QUÂN TỬ lại
gắn với LIÊM SỈ. Liêm sỉ là biết tự xấu hổ, trước hết là với lương tâm mình. Bậc
trượng phu không được lấy nê vì Nghĩa lớn mà bước qua những điều Sỉ nhỏ. Hoàng
Diệu, Phan thanh Giản, Nguyễn tri Phương tuy không có tội, nhưng xấu hổ vì không
làm tròn nhiệm vụ giữ thành nên quyết tự vẫn. Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng
tự sỉ càng phải lớn. Có khi đời tha cho mình mà mình không tha cho mình được. Ở
ta, người Cộng sản làm hỏng việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại
chuồn được!). Chuyện ấy địa phương nào cũng có, Trung ương lại càng điển hình.
Phải chăng vì bài ca "lợi quyền" kia đã ngấm vào xương thịt?
Để riễu cái
thói đạo đức giả nhưng lại vô sỉ, bám ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan
chức “cách mạng giả cầy” thế này: "Ông không ham chức
quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở lại làm đầy tớ của dân! Đứa nào ngăn
không cho ông làm đày tớ ông đánh bỏ mẹ." (!)
Nhiều lúc tôi
tưởng tượng như cả dân tộc mình đang ở trong trạng thái thôi miên.
Tôi nghĩ đến
một ví dụ khác, một người đủ tư cách thay mặt cho Đảng. Tôi không có ý định chỉ
trích cá nhân ông, nhưng trường hợp của ông lại rất điển hình. Trước đây ông nổi
tiếng là người Mác xít gang thép, chẳng những trong việc “đánh Đế quốc Mỹ và tay
sai”, mà cả trong việc đánh đồng bào mình, những nhà "công thương nghiệp tư bản
tư doanh"(họ mang tiếng là Tư sản nhưng chưa giàu bằng các vị Tư sản đỏ bây
giờ). Hiện ông cũng đang rất gang thép trong việc kiên trì Mác-Lê và định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Ấy thế mà đùng một cái, ông ngồi sánh vai với " bọn tay sai
Nam Hàn" (cái "bọn" mà tôi còn nhớ trước đây chúng "giết bộ đội mình như ngóe"),
ngồi để ký kết những chương trình mà chắc chắn là phản lại cái "chủ trương cải
tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh" của ông trước đây (và nhận quà biếu tới
2 triệu đô-la). Tôi tự giải thích: có thể sự quay ngoắt 180 độ này là một sự
tỉnh ngộ, đổi mới chân thành, muốn làm bạn với tất cả mọi người.
Có thể thế lắm
chứ! Nếu ông đổi mới như vậy thật thì quá tốt.
Nhưng, người
sám hối có những "triệu chứng lâm sàng" rất dễ nhận thấy. Biểu hiện buộc phải có
là "ngượng", là "thẹn", khiến cho những người khó tính nhất cũng phải tha thứ.
Trong trường
hợp này, các "triệu chứng lâm sàng" đáng yêu kia hoàn toàn không có. Người đã có
sai lầm tội lỗi chẳng những cứ thản nhiên cười nói, mà còn giữ tư thế huấn thị,
kiên trì chủ nghĩa, xử tội, “chém tay” quát nạt thiên hạ, thì đây chỉ có thể là
sự thiếu nhân cách đến vô liêm sỉ.
Điều lạ nữa là
tại sao tất cả những cán bộ xung quanh, trước hết là những người hữu quan, lại
không ai lấy thế làm xấu hổ, một thứ xấu hổ mà chỉ cần là một người có nhân cách
bình thường thôi cũng không chịu nổi! Mà đâu phải riêng việc đó, bao nhiêu điều
quay quắt, lộn ngược lộn xuôi rành rành trước mắt, mà lại có thể tươi tỉnh như
không? Mà đều nghĩ được cách giải thích, mà lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi
người không hề ngượng mồm?
Tôi không muốn
lên án riêng ai, bởi thế tôi thấy chỉ có thể giải thích đây là một trạng thái
thôi miên tập thể. Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị:" Hãy
coi chừng! không được trái ý Mác Lê! Hãy coi chừng, không được trái ý Mác Lê!"
như sợ một bóng ma trong tiềm thức, một tay cầm gậy một tay cầm củ cà rốt.
Mác-Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác Lê giống mấy ông Công an, giống bà trưởng
phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống những kỷ niệm kinh
hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống két bia lon
với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên bàn thờ...
Mác-Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong khí quyển thôi miên ấy, con
người phải quên nhân cách riêng, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn!.
Cái gọi là “Lý tưởng Cộng sản”(mà chưa biết một thế kỷ nữa có thực hay không)
bây giờ chỉ còn là cái bình phong tự lừa dối lương tâm để làm điều vô liêm sỉ,
phá bỏ chiếc bình phong che mặt ấy chính là giúp người ta trở về con người có
nhân cách thật, đó là việc làm nhân ái, cứu người! Bởi Dối trá là điều kiện cần và đủ cho cái gọi là chủ nghĩa
Cộng sản tồn tại và phá phách xã hội. Không có vị anh hùng dân tộc nào
đủ sức chống lại con Quỷ dối trá ấy, trừ phi mỗi người công dân dám tự dấn thân
một lần “Nói thật để cứu
nước”!
Khi học môn
giải phẫu cơ thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần kinh chỉ huy việc khép đùi nên
tên là dây "thần hinh thẹn". Bây giờ mỗi khi cùng nhau tâm sự chuyện đời, chúng
tôi lại nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt mất dây "thần kinh thẹn" rồi.
(nhưng khi nghe những thằng bạn thao thao bất tuyệt trên Ti-vi chúng tôi vẫn
thấy thẹn thay). Cảm ơn Tạo hóa đã cho Con người biết thẹn, nếu không, ai giữ
Văn hóa cho Người!
3c- Hiện tình “Văn học Cách mạng”
Tính cách Dân
tộc ấy, hoàn cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện vào nhau nhào nặn
nên một tổng thể Văn hóa 'đặc sắc' không bút nào tả nổi. Nền Văn học "hiện thực
xã hội chủ nghĩa" cố kéo dài hơi thở hào hùng thời kháng chiến một cách đuối
sức, tỏ ra bất lực và mất phương hướng trước một thực tế mà nó không nhận thức
nổi hay không dám nhận thức. Một số tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự
giả tạo và đạt được sự phê phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối
ra. Giải thưởng Văn học nào cũng "có chuyện". Làm sao có thể tổ chức nổi một
cuộc thi cho tử tế khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm lại
những từ ngữ cơ bản, viết lại những mệnh đề cơ bản: chẳng hạn "Cách mạng" nghĩa
là gì, "phản động" nghĩa là gì, "yêu Chủ nghĩa xã hội" có phải là "yêu nước"
không?... vân vân... Người chấm thi bị xé về hai chiều, "con người chính trị "
phải đạo không còn chung sống nổi với "con người văn học" trong một thể xác như
ở giai đoạn trước, và mỗi "con người" ấy trả lời những câu hỏi trên một cách
trái ngược nhau.
Tất cả những
giá trị văn học chân chính lâu dài mà ta đã gặt hái được trong mấy chục năm mà
ta gọi là 'Cách mạng' thực chất không có gì khác ngoài giá trị Văn học yêu nước
và nhân bản, còn cái chất 'chuyên chính vô sản' nếu có đóng góp thì chủ yếu là
gây nên cái mặt trái của nền văn học đó.
Làm sao có được
"tác phẩm tương xứng với thời đại" khi nhà văn không thể nhìn thẳng vào thời đại
bằng con mắt của riêng mình? Vừa phải nhìn bằng con mắt của người khác, lại vừa
nơm nớp lo không biết trong cặp mắt kia bên nào mắt thật bên nào mắt giả?. Mắt
vẫn mở, mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi miên
rồi.
Trong xã hội
quái đản ấy đã bật ra bút pháp Nguyễn huy Thiệp: Cái khốn nạn, lưu manh hết chỗ
nói mà cứ bình thường như không, thương nó cũng dở, giết nó không nỡ, không lần
được cái đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm điều đồi bại mà cứ như vô tình...
Cái Thiện, cái Mỹ thì mong manh như mây khói. Phải chửi Trí thức! phải chửi Đạo
đức! phải tốc ngược lịch sử lên để nhìn rõ những chân dung ngụy tạo! Cái nhạy
cảm đạo đức tuyệt vời thiên phú của anh xui anh làm thế! Trong tấn tuồng đời,
các vai đạo đức đã bị những kẻ vô đạo giành đóng hết rồi!
Nhưng anh phải
nén tấm lòng xót xa ấy, xã hội không cho anh xót xa, đất nước đang đi lên không
được xuýt xoa. Vì thương con người mà không thể thương con người (tôi thích lời
bình luận ấy của Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc động nên phải viết lời vô cảm! Đọc
những câu văn tục tĩu, vô cảm hoặc độc ác của anh tôi cứ ứa nước mắt. Chỉ riêng
cái 'vỏ' bút pháp của anh đã chứa hết cái ruột gan của xã hội trong đó rồi. Cốt
chuyện chỉ còn là cái cớ, lúc thực lúc hư.
Xã hội quái đản
ấy cũng buộc phải đẻ ra thơ "Bút Tre" để phản ánh nó, khi văn học chính thống cứ
ngồi lù lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút Tre ở Vĩnh phú mà ông
Ngô quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ ngẩn một cách chân thành, và
chân thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn hóa Vĩnh phú kia chỉ là cái
cớ để dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của mình, để riễu cợt những giá trị mà
công khai họ cứ phải "hoan hô". Thơ "Bút tre thật" không ai thuộc làm gì, đọc
rồi cũng không nhớ được, còn"Bút tre dân gian" thì mỗi lần nghe người ta đọc,
tôi lại thấy cái sức sống mới mẻ, say sưa như thể chính người ấy đang sáng tác.
Câu thơ Bút tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê
đơn nghĩa, để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo điều.
Cười bò ra, rồi chảy nước mắt... vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa tiện trích
dẫn ở đây.
Còn những "cây
đa cây đề" trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều bị chia đôi:
"Vị nghệ thuật" nửa cuộc đời,
Nửa đời sau lại "vị" người ngồi trên!
(Xuân Sách,
chân dung Nhà văn)
Cái còn lại của
những tài năng văn học tiêu biểu ấy là những tác phẩm thanh xuân đầu đời, của
người nghệ sĩ tự do, những Điêu tàn, Lửa thiêng..., còn nửa sau là cái nửa "lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa" (Xuân
Sách, chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự nghiệp lẫn nhân cách. Người bị mất chung
quy là Dân tộc. Những bài thơ di cảo "Bánh vẽ", "Trừ đi", "Ai, tôi" của nhà thơ
Chế Lan Viên lỗi lạc (xem phụ lục 3) đủ để tự phủ định toàn bộ cái nửa đời sau
của cả một thế hệ văn nhân, nhưng những ngày cuối cùng của ông lại cho thấy
những nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy họ đâu có thể tự do "về nguồn" theo lương
tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để thẳng thắn trả lời câu
hỏi:
Cuộc đời hai nửa vì
đâu?
Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình!
(HSP, thư gửi
Xuân Sách)
Dòng Văn học
mới không thể không "phản tỉnh", tự mình "lật tẩy" mình để tự vượt qua, vượt qua
mình, vượt qua một vùng Văn hóa thấp mà về với loài người văn minh.
*
Tóm lại không
thể xây dựng nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một "giai cấp Vô sản tiêu
biểu cho thời đại" như Mác tưởng tượng. Những xã hội trước đây đã lao theo con
đường của Mác thì nay chẳng có con đường nào khác ngoài con đường trở về với Dân
tộc truyền thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội dung hoàn toàn khác
với nội dung Thời đại mà các Đảng Cộng sản thế giới trước đây ấn
định.
Tình hình
xã hội trong giai đoạn chuyển đổi tất nhiên rất phức tạp. Muốn có lối ra tốt đẹp
nhất cho Dân tộc thì phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa và phải giải quyết một
cách Văn hóa. Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn hóa cũ đã kém sức sống thì
tình trạng tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội để những thứ Văn hóa không lành
mạnh xâm nhập và chiếm lĩnh. Trong điều kiện ấy xã hội sẽ
có sự ổn định bề ngoài nhưng thoái hóa bên trong, xã hội có thể đạt những tiến
bộ nhất định về Kinh tế nhưng sẽ thoái hóa về Văn hóa nói chung. Văn hóa thấp kém sẽ phá hoại tất
cả!.
Hà Sĩ Phu
(1995)
___________________________
No comments:
Post a Comment