KẺ TRÊN TRĂM TÊN
TRẦN GIA
PHỤNG
Trong ngành tình báo,
kể cả trong tiểu thuyết gián điệp, các điệp viên thường có nhiều tên hoặc bí
danh, bí số khi hoạt động để tự giấu mình và đánh lừa kẻ khác. Ngoài ra, còn có
nhiều người thay tên đổi họ để lừa bịp, lừa tiền hoặc lừa
tình.
KẺ TRÊN TRĂM
TÊN
Dầu là ngày xưa hay
ngày nay, dầu thực tế hay tiểu thuyết, dầu là giới tình báo hay những kẻ lừa
bịp, trên cõi đời nầy, có lẽ không ai có nhiều tên bằng Hồ Chí Minh (HCM), chủ
tịch nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam trước năm
1975.
Theo thống kê chính
thức của nhà cầm quyền cộng sản hiện nay ở trong nước, trong sách Những tên gọi,
bí danh, bút danh của chủ tịch Hồ Chí Minh, do Bảo tàng Hồ Chí Minh biên soạn,
Nxb. Chính Trị Quốc Gia ấn hành năm 2001 ở Hà Nội, thì HCM có tất cả 169 bí
danh, mà CS gọi là bút hiệu, bút danh, vừa để hoạt động, vừa để viết báo. Sách
nầy còn ghi thêm một số bí danh nghi ngờ là của HCM mà người CS còn đang tìm
hiểu thêm.
Hồ Chí Minh sống khoảng
80 tuổi. Từ khi sinh ra cho đến khi chết, HCM dùng 169 bí danh, tính trung bình
mỗi năm HCM có hai bí danh. Cũng theo thống kê trên đây, trong 169 bí danh nầy,
từ khi sinh ra cho đến năm 1954 (64 năm), HCM dùng 133 bí danh, nghĩa là trung
bình một năm cũng hai bí danh. Từ 1954, làm chủ tịch Bắc Việt Nam cho đến khi
chết năm 1969 (15 năm), HCM có 36 bí danh. Vậy trung bình một năm, HCM dùng hơn
hai bí danh.
Trong bài nầy, chúng ta
không nhắc lại tất cả những tên và bí danh của HCM, chỉ xin nói đến một vài cái
tên và bí danh đặc biệt mà thôi.
NGUYỄN TẤT THÀNH, HY
VỌNG THÀNH ĐẠT
Đầu tiên, tên khai sinh
của HCM là Nguyễn Sinh Cung. Giọng địa phương nguyên quán Nghệ An của Nguyễn
Sinh Cung, phát âm chữ Cung là Côông. Vì vậy có tài liệu ghi tên cúng cơm của
HCM là Nguyễn Sinh Côn. (Ví dụ: Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa,
California, 1993, bài “Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà
trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)”.)
Điều đặc biệt là anh
của Nguyễn Sinh Côn tên là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950). Giọng địa phương phát
âm chữ “Khiêm” là “Khơm”. Như thế, một người tên Khơm, một người tên Côn. Tên
hai anh em ghép lại đọc chung là “Khơm Côn”. Đọc ngược hai chữ “Khơm Côn” nầy
lại (nói lái) là “Khôn Cơm”. Giọng địa phương (từ Nghệ An vào Thừa Thiên) “khôn”
còn có nghĩa là “không”. “Khôn cơm” nghĩa là không có cơm mà ăn. Có người lý
giải rằng vì tên của hai anh em nhà nầy “khôn cơm”, nên phụ thân là Nguyễn Sinh
Sắc (sau đổi tên là Nguyễn Sinh Huy) nghèo mãi. Người ta nói vì vậy mà ông Sắc
đổi tên hai con. Nguyễn Sinh Khiêm thành Nguyễn Tất Đạt. Còn Nguyễn Sinh Cung
(hay Nguyễn Sinh Côn) thành Nguyễn Tất Thành, hy vọng về sau gia đình sẽ thành
đạt, giàu có.
NGUYỄN ÁI QUỐC: CHÔM
TÊN CỦA NHIỀU NGƯỜI
Cái tên thứ hai đáng
nói của HCM là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp trên tàu Amiral
Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài Gòn, đi Pháp ngày 5-6-1911. Ông đặt
chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911. Nguyễn Tất Thành
làm đơn xin tổng thống Pháp được đặc ân vào học Trường Thuộc Địa Paris để ra làm
quan cho Pháp, nhưng không được chấp thuận, nên Thành đành tiếp tục theo tàu
hành nghề. Sau thế chiến thứ nhứt (1914-1918), Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp
giữa năm 1919. (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ‘Indochine au Vietnam, Paris:
Nxb. Gallimard, 1990, tr. 42.) Tại đây Nguyễn Tất Thành gặp Phan Châu Trinh, đậu
phó bảng tại Thừa Thiên (Huế) năm 1901, cùng khóa với Nguyễn Sinh Huy, phụ thân
của Nguyễn Tất Thành. Nhờ sự giới thiệu của Phan Châu Trinh, Thành quen với Phan
Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Qua ba người nầy, Thành bắt đầu tiếp xúc với giới
chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ
Pháp.
Cả bốn ông (Trinh,
Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc (Daniel
Hémery, sđd. tt. 44-45), đồng ký bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh
nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn, do Phan Văn Trường soạn, gởi cho
các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles tại Paris sau thế
chiến thứ nhứt, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần
đầu trên báo L’Humanité [Nhân Đạo] ngày
18-6-1919.
Trong bốn người cùng
dùng chung bút hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường đang bị
mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt; Nguyễn Thế Truyền là sinh viên du
học, đang hưởng học bỗng của Pháp để học ngành hóa học, nên không thể công khai
chống Pháp; chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật thám Pháp chú
ý. Nguyễn Tất Thành thường đại diện cả nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc
với báo giới và chính giới. Dần dần Nguyễn Tất Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn
Ái Quốc làm tên riêng của mình. Từ nay, Nguyễn Tất Thành được gọi là Nguyễn Ái
Quốc.
HỒ CHÍ MINH: TIẾM DANH
HAY TRỞ LẠI HỌ CŨ
Cái tên thứ ba đáng nói
nữa là Hồ Chí Minh. Cũng như tên Nguyễn Ái Quốc, tên Hồ Chí Minh không phải do
Nguyễn Sinh Cung chọn, mà Cung cũng tiếm danh của người
khác.
Nguyên hai nhà cách
mạng Việt Nam ở Trung Hoa là Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần, được sự giúp đỡ của
Trung Hoa Quốc Dân Đảng, thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là
Việt Minh tại Nam Kinh vào tháng 1-1936. Ngoài Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần,
các hội viên nòng cốt khác là Nguyễn Thức Canh, Đặng Nguyên Hùng, Hoàng Văn Hoan
[bí danh là Lý Quang Hoa, thuộc chi bộ Vân Quý tức Vân Nam và Quý Châu (Guizhou)
của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD).]
Năm 1937, Hồ Học Lãm
đến hoạt động ở tỉnh Hồ Nam, và lấy tên là Hồ Chí Minh. (Chính Đạo, Việt Nam
niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 168.) Cũng trong năm
nầy, trước hiểm họa xâm lăng của Nhật Bản, hai phe Quốc-Cộng Trung Hoa liên minh
lần thứ hai ngày 22-9-1937.
Do sự liên minh nầy,
chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa cho phép đảng CS hoạt động công khai trở
lại. Vì vậy, vào mùa thu năm 1938, đảng Cộng Sản Liên Xô, qua danh nghĩa Đệ tam
Quốc tế Cộng sản, gởi Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô qua Trung Hoa hoạt động trở lại
với tên mới là Hồ Quang. Hồ Quang liền liên lạc và điều động nhóm đảng viên
thuộc cơ sở hải ngoại đảng CSĐD.
Nhờ sự giới thiệu của
Hồ Học Lãm, vào gần cuối năm 1940, một số đảng viên CSĐD, dưới vỏ bọc là thành
viên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), đến Quế Lâm (Guilin / Kweilin
tỉnh Quảng Tây) gặp Lâm Uất, phó chủ nhiệm hành dinh tây nam của Tưởng Giới
Thạch. Lâm Uất đưa nhóm nầy đến gặp chủ nhiệm của ông ta là Lý Tế Thâm. (Hoàng
Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, hồi ký. Portland, Oregon: Nhóm tìm hiểu lịch
sử, 1991, tr. 134.)
Do tin cậy Hồ Học Lãm,
cả Lâm Uất lẫn Lý Tế Thâm đã giúp đỡ họ, và không biết nhóm nầy là những đảng
viên CSĐD. Từ đó, những đảng viên CSĐD hoạt động ở Trung Hoa cũng như ở trong
nước, đều sử dụng danh xưng Việt Minh, hay nói cách khác, đảng CSĐD đã chiếm
dụng danh xưng tổ chức Việt Minh của Hồ Học Lãm, làm tên mặt trận chính trị của
đảng CSĐD. Trong khi đó, từ cuối năm 1940, Hồ Quang (Nguyễn Tất Thành) sử dụng
thông hành khác mang tên là Hồ Chí Minh. Tên nầy vốn là bí danh của Hồ Học Lãm.
Hồ Chí Minh mới (Hồ Quang, Nguyễn tất Thành) ngụy trang là ký giả của một tờ báo
do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí,
sđd. tr. 161.)
Với bí danh khác là Già
Thu, Hồ Chí Minh (HCM) trở về Việt Nam ngày 28-1-1941, sống ở Pắc Bó (Cao Bằng),
lập Mặt trận Việt Minh ở trong nước. Tại đây, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Già Thu
tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSĐD lần thứ 8 từ ngày 10-5 đến
ngày 19-5-1941 tại Pắc Bó. Sau đó, Già Thu tiếp tục qua Trung Hoa hoạt động
khoảng từ tháng 8-1942, lấy luôn bí danh của Hồ Học Lãm là HCM, làm tên mới của
mình. Hồ Chí Minh bị bắt tại trấn Thiên Bảo (Quảng Tây) ngày 29-8-1942 và được
tha ngày 10-9-1943. (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoại, tập 2,
sđd. tt. 278, 283.)
Từ đây, HCM trở thành
tên chính thức của Nguyễn Sinh Cung, kể cả khi lên làm chủ tịch Bắc Việt Nam năm
1954, cho đến cuối đời. Trần Quốc Vượng, một sử gia cộng sản ở trong nước, giải
thích như sau về hiện tượng trên: “Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì
cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn
Sinh Nhậm.” (Trần Quốc Vượng, sđd. tr. 258.)
Trước sau vụ việc theo
lời kể của Trần Quốc Vượng là như sau: Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành,
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) là con của Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy).
Nguyễn Sinh Sắc là con của Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của
Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên Nguyễn Sinh Nhậm chỉ
là người cha trên giấy tờ của Nguyễn Sinh Sắc mà thôi, còn người cha thực sự của
Nguyễn Sinh Sắc là Hồ Sĩ Tạo, tức Hồ Sĩ Tạo là ông nội thực sự của Nguyễn Sinh
Cung. Vì vậy, Nguyễn Sinh Cung rất bằng lòng với danh xưng Hồ Chí Minh, là họ
của ông nội ruột của ông. Câu chuyện nầy, ngày nay ở quê của HCM, tức huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, ai cũng biết và ai cũng đều xác nhận là đúng sự
thật.
C.B. LÀ “CỦA BÁC”, CHỨ
CỦA AI VÔ ĐÓNgày 20-4-1953, sắc lệnh Cải cách ruộng đất (CCRĐ) đợt thứ 3 được ban hành. Nơi thực hiện đầu tiên là Thái Nguyên. Người bị đấu tố đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long nên người ta quen gọi là bà Cát Hanh Long. Bà Cát Hanh Long bị đem ra đấu tố ba lần và bị giết ngày 9-7-1953.
Bà Cát Hanh Long (bà
Năm) là một quả phụ, nổi tiếng là nhà kinh doanh tài ba, hào hiệp, giúp đỡ nhiều
người. Từ 1945 đến 1951, bà Cát Hanh Long đã từng dùng nhà mình làm nơi hội họp,
nghỉ ngơi, che giấu, ăn ở, nuôi dưỡng cán bộ CS, trong đó có những nhân vật cao
cấp như Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Chí Thanh, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Tùng… Bà còn đóng góp nhiều tiền
bạc cho VMCS, nên việc đấu tố và xử tử bà Cát Hanh Long gây nhiều dư luận bất
bình.
Vì vậy, trên báo Nhân
Dân ngày 21-7-1953, xuất hiện bài viết nhan đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả
C.B. nhằm trấn an dư luận. Bài báo lên án nặng nề địa chủ Cát Hanh Long (Nguyễn
Thị Năm) cùng hai con là những địa chủ gian ác, bóc lột, dã man. Bài báo còn tố
cáo gia đình bà Cát Hanh Long vừa trực tiếp, vừa gián tiếp giết chết 260 người.
(Xin xem bài báo nầy ở phía dưới.)
Theo hồi ký của Hoàng
Tùng, từng là bí thư Trung ương đảng CSVN, khi nghe tin cố vấn Trung Quốc yêu
cầu xử tử bà Cát Hanh Long, có người báo tin cho HCM biết. Họp Bộ chính trị đảng
CS, HCM nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không
phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại giúp đỡ
cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một
cành hoa.” (Internet: Hồi ký Hoàng Tùng, mục “Những kỷ niệm về Bác Hồ”.) Hoàng
Tùng còn cho biết rằng khi cố vấn Trung Quốc nhiều lần đề nghị, HCM nói rằng:
“Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cho là không
phải.”
Theo một tài liệu mới
xuất bản vào giữa năm 2014, tác giả là một người đã từng là ký giả báo Nhân Dân
Hà Nội, có nhiệm vụ viết bài tường thuật vụ xử án bà Cát Hanh Long, khi xảy ra
vụ án thì: 1) Hồ Chí Minh bịt râu, hóa trang để đến dự đấu tố. 2) Trường Chinh
đeo kính đen để khỏi bị nhận diện khi tham gia cuộc đấu tố. 3) Sau khi bà Năm bị
giết, cán bộ mua một cái hòm thật rẻ tiền để chôn địa chủ “gian ác”. Vì rẻ tiền
nên hòm nhỏ quá, bỏ xác người chết vào không lọt. Cán bộ CS kết án bà Năm thêm
lần nữa, là chết rồi mà còn phản động, không chịu chui vào hòm. Cán bộ CS liền
đứng lên đạp xác bà Năm xuống; xương gãy kêu răng rắc rất rợn người. (Trần Đĩnh,
Đèn cù, Hoa Kỳ: Người Việt Books, 2014, tr. 86.)
Sự hiện diện của HCM và
Trường Chinh trong phiên tòa đấu tố nầy chứng tỏ tầm mức quan trọng của cuộc đấu
tố bà Cát Hanh Long và cũng chứng tỏ cả hai đều quyết tâm giết bà Cát Hanh Long
ngay khi mở đầu cuộc CCRĐ năm 1953.
Lúc đó, chỉ có giới cán
bộ cao cấp và một số người trong báo Nhân Dân (trong đó có Trần Đĩnh) mới biết
được C.B. đích thị là ai? Còn đại đa số dân chúng, trong thời gian dài, không
biết C.B. là ai? Gần đây, trên Internet, có tài liệu phát hiện C.B. là bút hiệu
của HCM dùng trên 147 bài đăng trên nhật báo Nhân Dân từ tháng 3-1951 đến tháng
3-1957. Những người làm việc trong báo Nhân Dân giải thích rằng hai chữ C.B. là
“của bác”, chứ còn ai vô đó nữa. Ngày nay, bộ Hồ Chí Minh toàn tập đã được phổ
biến rộng rãi. Mọi người có thể vào từ tập 6 (1951-1952), sẽ thấy rất nhiều bài
viết HCM ký tên C.B. đăng trên báo Nhân Dân, và đăng lại trong sách nầy; ví dụ
các trang 186, 187, 188-190, 202-204, 209-212, 215-220… (Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 6, 1951-1952, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000.) Hồ Chí
Minh lên tiếng có thể nhắm cho đảng viên biết rằng vụ xử tử bà Cát Hanh Long là
chủ trương của đảng để chấm dứt chuyện bàn tán, phê
bình.
Như vậy có nghĩa là bên
ngoài thì HCM tỏ ra rất đạo đức, thương tiếc nạn nhân, nhưng bên trong, chính
HCM là người quyết định cái chết của ân nhân Nguyễn Thị Năm. Đúng là “khẩu Phật
tâm xà”, một kẻ đạo đức giả gian ác, nham hiểm như Nguyễn Du đã mô tả: “Bề ngoài
thơn thớt nói cười,/ Mà trong nham hiểm giết người không dao.” (Truyện Kiều câu
1815-1816.)
TRẦN DÂN TIÊN, T.
LAN: THỔI ỐNG ĐU ĐỦ
Thổi ống đu đủ là trò
chơi của trẻ con Việt Nam, dùng cọng lá đu đủ làm ống, chấm nước xà phòng rồi
thổi thành bong bóng bay lên trời. Trong văn học, có hai tác giả chuyên thổi ông
đu đủ hết sức tài ba là Trần Dân Tiên và T. Lan. Trần Dân Tiên là tác giả sách
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, và T. Lan là tác giả sách Vừa
đi đường vừa kể chuyện.
Quyển sách thứ nhứt
xuất hiện lần đầu ở Trung Quốc năm 1948, sau đó ấn hành ở Paris năm 1949. Sau
năm 1954, Nx, Văn Nghệ Hà Nội tái bản năm 1955, rồi Nxb. Sự Thật tái bản nhiều
lần, và sau năm 1975, Nxb. Trẻ tái bản ở Sài
Gòn.
Sách Vừa đi đường vưa
kể chuyện được đăng lần đầu trên báo Nhân Dân năm 1961 và sau đó Nxb. Sự Thật
tái bản nhiều lần. Những tái bản sau cùng do Nxb. Trẻ ở Sài Gòn đảm
trách.
Lúc đầu, người ta không
biết hai tác giả Trần Dân Tiên và T. Lan là ai? Người ta cũng không tìm ra hai
người nầy ở đâu, vì chẳng ai có đứng ra nhận mình là Trần Dân Tiên hay T. Lan.
Tuy nhiên dần dần người ta cũng tìm được hai bút danh nầy đều là của HCM. Trước
hết, các phiếu sách trong thư viện nhà nước đề là: “Trần Dân Tiên, T. Lan: tìm
HCM”. Điều nầy cho người đọc tự động hiểu rằng Trần Dân Tiên và T. Lan chính là
HCM. Tuy nhà cầm quyền CS không chính thức xác nhận điều nầy, nhưng những nhà
nghiên cứu trong nước hầu như đồng thừa nhận Trần Dân Tiên và T. Lan là HCM. Có
tài liệu cho biết bản gốc sách của T. Lan hiện còn được cất giữ ở Phủ chủ tịch
Hà Nội.
Trong sách Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên đã viết trong phần đầu
sách: “Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và
đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình
sinh của người được?” (Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ Tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1976, tr. 9.) Một người dùng một cái tên khác
viết sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau đó, suốt
trong quyển sách lại kể lể, tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết nên xếp
kẻ đó vào loại người gì đây?
Trong sách nầy, chẳng
những HCM tự đề cao mình mà còn chê bai những anh hùng dân tộc như Hoàng Hoa
Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, hoặc đả kích các nhà đấu tranh khác như
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, hoặc triệt hạ tổ chức hay đảng
phái khác
Cuối sách nầy, Trần Dân
Tiên viết: “Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là
người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam.” (Trần Dân Tiên, sđd. tr. 149.)
Lời nầy cho thấy HCM muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi ông là cha già của
dân tộc, nhưng không được hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ “bác”. Ở đây lại
thấy HCM thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác
lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình, hoặc lễ nghi tế
tự.
Sách Vừa đi đường vưa
kể chuyện do HCM tự kể tự viết, nhưng dùng một cái tên khác là T. Lan, một cán
bộ đi theo HCM trên bước đường công tác. Câu chuyện bắt đầu từ khi HCM hoạt động
ở Pháp từ năm 1919, rồi những năm hoạt động ở Nga, Trung Hoa, cho đến khi về
nước và chiến dịch 1950. Dĩ nhiên luôn luôn xen kẻ những lời xưng tụng HCM là
người yêu nước, đầy sáng kiến, tài ba, khoan
dung…
Hồ Chí Minh sáng tạo ra
hai con rối Trần Dân Tiên và T. Lan trong hai quyển sách do HCM viết ra trên
đây, nhắm thổi ồng đù đủ để ca tụng chính mình, tự quảng cáo mình, huyền thoại
hóa tên mình, mà một người tự trọng bình thường không bao giờ làm thế. Những
người không biết Trần Dân Tiên và T. Lan là ai, nhất là các trẻ em ngây thơ,
được học hai quyển sách nầy trong nhà trường, nên một thời lầm lẫn tôn sùng thần
tượng HCM. Tuy nhiên khi lớn lên, biết được sự thật là Trần Dân Tiên và T. Lan
chỉ là HCM trá hình, thì chẳng những sẽ thất vọng mà còn khinh bỉ. Thì ra HCM
cũng có ngón nghề thổi ống đu đủ, tự bơm, tự nổ. Khổ một điều, ai phát hiện kẻ
đạo diễn của hai tên thổi ông đù đủ nầy, thì ngậm mà nghe chứ không dám nói ra,
vì nói ra sẽ bị báo cáo và bị CS bắt bỏ tù.
TRÊN TRĂM TÊN ĐỂ LÀM
GÌ?
Hồ Chí Minh có 169 tên,
không ai có thể nhớ hết được. Ngay cả HCM có thể cũng không nhớ hết được. Một
câu hỏi đặt ra là HCM dùng nhiều tên, nhiều bí danh để làm
gì?
Thông thường, một người
không dùng tên mình, mà dùng một tên khác trong công việc, vì sợ lộ bí mật, muốn
giấu mặt, giấu lý lịch, nhất là trong những hành vi thiếu trong sáng, phi pháp,
bất chính. Càng nhiều tên càng muốn giấu mặt thật kỹ. Ngay cả vua Bảo Đại (trị
vì 1926-1945) cho đến tháng 8-1945 không biết HCM là ai? (Bảo Đại, Con rồng Việt
Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 188.)
Hồ Chí Minh hầu như
muốn “chôn” luôn tên do cha mẹ đặt ra tức tên Nguyễn Sinh Cung, dùng trên một
trăm tên khác nhau tùy vào giai đoạn hoạt động trong cuộc đời của
HCM:
Từ nhỏ cho đến khi đến
Pháp năm 1919: 11 tên
Từ 1920 đến khi về nước năm 1941: 73 tên
Từ 1941 đến 1945 (cướp chính quyền): 13 tên
Từ 1946 đến 1954 (thời chiến tranh): 36 tên
Từ 1955 đến 1969 (chủ tịch nước) 36 tên
Cộng: 169 tên
Từ 1920 đến khi về nước năm 1941: 73 tên
Từ 1941 đến 1945 (cướp chính quyền): 13 tên
Từ 1946 đến 1954 (thời chiến tranh): 36 tên
Từ 1955 đến 1969 (chủ tịch nước) 36 tên
Cộng: 169 tên
Nhìn vào bảng thống kê
trên đây, từ khi còn nhỏ cho đến năm 1919 (khoảng 30 năm), HCM có 11 tên, tuy là
ít so với tổng số tên trong toàn cuộc đời HCM, nhưng có thể nói là đã nhiều so
với cả đời người bình thường. Lý do có thể là ngay từ khi vừa mới lớn, HCM mặc
cảm hay xấu hổ về nguồn gốc gia đình mình, vì vậy tránh dùng tên do gia đình
đặt.
Nguyên do là khi mới
lớn ở nguyên quán (Nam Đàn, Nghệ An), chắc chắn HCM nghe được dân làng truyền
miệng về nguồn gốc của cha mình. Đó là Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là cha hờ của Nguyễn
Sinh Sắc (Huy), tức ông nội hờ của HCM, còn Hồ Sĩ Tạo mới là cha thật của Nguyễn
Sinh Huy (Sắc) tức ông nội thật của HCM. Đây là một điều rất xấu hổ trong xã hội
nề nếp Việt Nam ngày xưa, nhất là ở nông thôn, nơi mà người người biết nhau, nhà
nhà biết nhau. Điều nầy có thể ám ảnh Nguyễn Sinh Cung và tạo ra tâm lý bất
thường nơi người thanh niên từ khi mới lớn cho đến cuối đời, sợ người ta phát
hiện cha mình là đứa con hoang.
Hơn nữa, HCM lớn lên
trong thời đại khoa bảng Hán học. Con ông phó bảng, nghĩa là cũng con nhà có
học, mà thanh niên nầy lại không có học vị, chẳng có bằng cấp gì, vì nếu có học
vị, có bằng cấp giấy tờ, thì HCM không thay đổi tên tuổi vì thay đổi thì văn
bằng hết giá trị. Vì những mặc cảm trên đây, HCM thay đổi tên họ nhiều lần ngay
cả trước khi hoạt động chính trị và gián điệp.
Từ năm 1920 cho đến năm
1954, tức từ khi tham gia hoạt động chính trị ở Pháp, rồi gia nhập đảng CS Pháp,
qua Nga (Liên Xô), qua Trung Hoa, về Việt Nam, đến khi lên làm chủ tịch Bắc Việt
Nam, HCM có 122 tên.
Cần chú ý là từ năm
1920 trở đi, xảy ra một khúc quanh quan trọng trong đời HCM. Đó là HCM gia nhập
đảng Xã Hội Pháp, rồi đảng Cộng Sản Pháp. Vì vậy, HCM được Đệ tam Quốc tế Cộng
sản (ĐTQTCS) chọn qua Liên Xô để huấn luyện năm 1923, Tuy nhiên HCM không đủ
trình độ văn hóa, nhất là ngôn ngữ và toán học để học chủ nghĩa Mác-xít, vì HCM
chỉ mới học tới lớp 6 ở trường Quốc Học Huế, lại chưa biết tiếng Nga. Do đó, tại
Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở Moscow, HCM chỉ học cấp tốc về nghề gián điệp,
làm nhân viên tình báo cho ĐTQTCS để mưu sinh. Nghề nầy phù hợp với khả năng ứng
xử linh động mau lẹ của một người giảo quyệt như HCM, vốn là một kẻ giang hồ,
lăn lóc trên các bến tàu trong các chuyến hải hành quốc
tế.
Vì là một gián điệp
chuyên nghiệp, được đào tạo chính quy tại Học Viện Thợ Thuyền Đông Phương ở
Moscow, HCM có thói quen thay họ đổi tên của một gián điệp, thường dùng tên giả
để hoạt động. Hơn nữa, những hoạt động của HCM là hoạt động chính trị tả phái
khuynh đảo, phá hoại nên phải luôn luôn thay đổi tên họ để tránh bị theo dõi và
bắt giam.
Trong thời gian hoạt
động tranh đấu cướp chính quyền, cần phải ẩn trốn, cần phải tránh né, HCM dùng
nhiều bí danh, có thể cho là bình thường, Tuy nhiên, điều đặc biệt là trong giai
đoạn từ 1955 đến khi chết (1969), tức thời kỳ làm chủ tịch nước, quyền uy tột
đỉnh, không còn phải sợ ai cả, HCM vẫn sử dụng 36 tên giả trên báo chí, không đề
tên thật.
Đường đường là chủ tịch
một nước độc tài toàn trị, chẳng còn sợ ai, tại sao lại phải dùng nhiều tên giả
để viết báo? Như thế phải có âm mưu gì? Nếu những âm mưu nầy không gian trá,
không bất chính, thì tại sao HCM phải giấu tên? Điều nầy cho thấy HCM là một
người bản chất xảo quyệt, mang não trạng bệnh hoạn của một tên đại bịp, chuyên
lừa đảo người khác, ném đá giấu tay.
Hơn nữa, HCM là con
người hết sức tham vọng, chủ trương thổi tên HCM thành một huyền thoại cao quý,
để cho dân chúng ngưỡng mộ HCM, không muốn ai nghĩ xấu về HCM, nên HCM đặt tên
HCM riêng ra một bên. Trong lúc đó, khi có nhu cầu tự ca tụng mình, hay tấn công
người khác, ném đá giấu tay, thì HCM dùng đến bí danh, chứ không dùng tên mình,
dù đang là chủ tịch nước, nhằm bảo vệ thanh danh riêng của HCM. Đây là tâm lý
của một người sùng bái cá nhân trong các chế độ độc
tài.
KẾT
LUẬN
Tóm lại, HCM có 169 cái
tên, bí danh, bút danh, bút hiệu, vừa trong thời gian hành nghề gián điệp, hoạt
động bí mật, và cả trong thời kỳ cầm quyền, làm chủ tịch nước. Dầu chế độ CSVN
có ca tụng gì đi nữa, có tung hô HCM đến đâu đi nữa, HCM dùng 169 tên để giấu
mặt, là bằng chứng rõ ràng HCM là một kẻ xảo quyệt, gian trá, tráo trở, đạo đức
giả, chuyên ném đá giấu tay, chứ chẳng hay ho gì việc ẩn danh đánh phá kẻ
khác.Hồ Chí Minh không phải chỉ là “một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại” như Bernard Fall viết trong Les deux Viet-Nam (Nxb. Payot, Paris, 1967, tr. 102), mà HCM còn là tên lừa đảo muôn mặt, bịp bợm nhất trong lịch sử Việt Nam. (Trích: Một thế kỷ lừa đảo, sẽ xuất bản.)
TRẦN GIA
PHỤNG
(Toronto, Canada)
(Toronto, Canada)
No comments:
Post a Comment