Giá trị của VNCH
Trần Trung Đạo
...Giá trị của VNCH được xây
bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để
trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc. Sau 40 năm, VNCH như một mạch nước chảy
ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy.
Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội,
khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận
riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến
pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù
Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân
tộc Việt Nam cần phải đạt đến...
*
Trong suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đã không ngừng vẽ
trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một con ma,
ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. Suốt 60 năm qua, VNCH là
hiện thân của thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau
1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để
biết VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc
Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn
ma” trên Talawas 8 năm trước người
viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài
viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà còn vô cùng
trầm trọng.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một lần
mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.
Miền Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không chỉ 300
triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà nhiều tỉ đô
la.
Vâng, tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền Nam Việt Nam ra đời
và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân
chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào
thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho
đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có tất cả sắc thái của một xã hội dân chủ
đang từng bước đi lên. Dân chủ không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên
giàu sang trong một sớm một chiều mà là quá trình tích lũy vốn liếng từ những
chắt chiu của mẹ, tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân
tộc.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải bước qua
con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH cũng vậy. Miền
Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham
nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có
ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật
nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Như một
viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích
thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong
Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì
dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu
ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả
phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý thức rằng sau bao năm ngoại
thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải
lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư
tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân,
nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân
chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai
sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và
117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền lãnh
đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt
động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật
tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã
hội”.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính
thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết theo một
chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và
ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân
tộc. Sau 40 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong rặng núi, đau đớn, vất
vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu ai cho tôi khoác lác hãy gác
qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội, khuynh hướng chính trị, đảng phái,
tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ
Việt Nam Cộng hòa trên trang đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm
chỉnh nội dung thôi, tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước,
sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến. Công
nhận các giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là đầu hàng,
chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi ai đầu hàng. Đây là
cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa cộng hòa và cộng
sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và toàn trị. Mỗi người Việt sẽ chọn
một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với quyền lợi bản thân, gia đình, con cháu
và sự sống còn của dân tộc.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần
thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống do Phan Chu Trinh,
Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều
nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong
mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi
đất nước bị chia đôi 1954 mà đã có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại
miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp
cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế độ
cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của dân
tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều người. Đó không phải là tài
sản của riêng miền Nam mà của tất cả những người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân
chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy”
ra khỏi nhận thức, sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu
một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải tìm
giải pháp từ Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm chân lý ở Anh, ở Mỹ mà
ngay ở đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người đã hy
sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đã nhấn mạnh
nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc
đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên
chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia vào đảng phái, kể cả việc tham gia
vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là
để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ
dàng hơn. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một
chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại
chính là dân tộc.
Nhiều người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng CS như
một tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ là một đảng yêu nước.
Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết
được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo
nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy
buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay.
Dù sao, người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho
một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc
nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ
quốc sẽ ghi công họ một cách công bằng.
Phục hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân tộc
Việt Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước Patenôtre, hiệp định
Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của thực dân và đế quốc áp
đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam yếu kém và phân
hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một người Việt yêu nước nào cũng mong
một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong
tự do, dân chủ và thịnh vượng. Tuy nhiên, ngoài trừ lãnh đạo CSVN chủ trương CS
hóa toàn cõi Việt Nam bằng súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải
trả bằng giá của nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần đất
nước, để lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù không tự
mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một và không có một thế lực nào làm
Việt Nam phân ly lần nữa.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ
sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ
khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý
Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500
năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống
trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là
một trong số rất ít quốc gia trên thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai
tiếng đồng bào thân thương và trìu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và
mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong
nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có 3 triệu
đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế cũng chỉ là nạn
nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán nước. Chỉ có sức mạnh toàn
dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và
mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế
hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền
đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục một
chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư
tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế
đất nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính trị,
quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi như Ghana,
Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện vì chính
phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy
nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh
đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng
không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm
người lãnh đạo được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người viết
đã trình bày trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981, lãnh đạo
CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình
đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian
có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam,
máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm
trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về
quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu
trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng
CSVN.
Sau hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được lịch
sử giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung Cộng. Cuộc tranh
đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của dân tộc trong cùng hướng
phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu và khối
Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ
bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16
chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS. Dân
tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện
đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới
trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo
chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu
chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là
một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
*
Trích đoạn từ bài
viết "Việt Nam Cộng Hòa, lối
thoát của Hoàng Sa và dân tộc" của
tác giả Trần Trung Đạo.
Trần Trung
Đạo
No comments:
Post a Comment