Thursday, March 31, 2016

Một tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia và các sĩ quan tốt nghiệp

Một tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia và các sĩ quan tốt nghiệp
Monday, March 28, 2016

Nguyễn Kỳ Phong

Trong hai năm 1973 và 1974, một tham vụ chính trị ở Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tên là James Nach, bắt đầu thâu thập một số chi tiết lịch sử về nguồn gốc các trường đào tạo sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và sĩ quan tốt nghiệp từ các trường đó. Tác giả ghi lại rất nhiều chi tiết về mười khóa đầu của Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt và năm khóa đầu của Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức. Ðây là một tập tài liệu với nhiều chi tiết lý thú. Ông James Nach còn bỏ công ra ghi lại chức vụ đương nhiệm của một số sĩ quan tốt nghiệp.

Theo sự hiểu biết của người viết bài này, tài liệu của James Nach là một trong hai tài liệu duy nhất của người Mỹ nghiên cứu về hệ thống đào tạo sĩ quan và xuất thân của sĩ quan QLVNCH. Năm 1970, cơ quan Advanced Research Projects Agency (một cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) có thực hiện một nghiên cứu với tựa đề An Institutional Profile of the South Vietnamese Officer Corps. Tuy nhiên, nghiên cứu này có tính cách chính trị nhiều hơn là lịch sử, vì tài liệu chỉ nói đến hệ thống sĩ quan tướng lãnh và phân loại họ có chiều hướng theo “phe” nào trong thời điểm đó.
(i)
Tài liệu của James Nach được viết ở Sài Gòn và gởi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ với sự chuẩn hành của Ðại Sứ Graham Martin. Vì tài liệu nằm trong dạng công văn, nên chỉ được lưu trữ trong văn khố hay các trung tâm nghiên cứu về Việt Nam. Bài viết dưới đây sơ lược lại những chi tiết lý thú của tác giả James Nach trong The National Military Academy and Its Prominent Graduates, và, Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools. (ii)

The National Military Academy and Its Prominent Graduates
Trong phần nghiên cứu về Trường Võ Bị Quốc Gia và Những Sĩ Quan Tốt Nghiệp Danh Tiếng, James Nach sơ lược lại sự thành hình của trường Võ Bị Quốc Gia. Hai khóa đầu tiên Trường Sĩ Quan Hiện Dịch bắt đầu ở Huế, Khóa 1 tháng 12, 1948, và Khóa 2 tháng 9, 1949. Tháng 10, 1950 trường dọn về Ðà Lạt và bắt đầu Khóa 3, với tên mới là Trường École Militaire Inter-Armes de Dalat. (iii) Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955, và trở thành Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 cho đến khi giải tán (Sắc Lệnh 325-QP, 10.4.1963).

Hai Khóa 1 Phan Bội Châu (53 sĩ quan tốt nghiệp) và Khóa 2 Quang Trung (97 tốt nghiệp) ở Huế ra trường một số sĩ quan sau này trở thành những tướng lãnh quan trọng của đầu thập niên 1960. Thủ khoa Khóa 1 là Trung Tướng Nguyễn Hữu Có; Khóa 2 là Thiếu Tướng Hồ Văn Tố (chết bất thình lình năm 1961 trong lúc chỉ huy Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức). Những tướng lãnh tốt nghiệp Khóa 1 như các Trung Tướng Ðặng Văn Quang, Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Trung. Một số sĩ quan cấp thiếu tướng và chuẩn tướng như Bùi Ðình Ðạm, Phan Xuân Nhuận, Tôn Thất Xứng, Nguyễn Văn Chuân. Khóa 2 có chín sĩ quan trở thành Tướng lãnh: Trung Tướng Ngô Dzu và Nguyễn Văn Mạnh; các Thiếu Tướng Trần Thanh Phong; Huỳnh Văn Cao; Hoàng Văn Lạc; Lê Ngọc Triển; và Chuẩn Tướng Lê Trung Tường. Trung Tá Vương Văn Ðông, một trong những nhân vật chủ mưu đảo chánh 11 tháng 11, 1960, cũng ra từ Khóa 2 này.

Khóa 3 Trần Hưng Ðạo có 135 sĩ quan tốt nghiệp. Ðây là khóa đầu tiên khai giảng ở Ðà Lạt. Có 9 sĩ quan trở thành cấp tướng - cấp tướng hạng “nặng ký.” Khóa có 4 Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Quân Ðoàn I, tốt nghiệp hạng 5), Nguyễn Xuân Thịnh (tư lệnh Binh Chủng Pháo Binh, hạng 8), Lâm Quang Thi (tư lệnh Tiền Phương Quân Ðoàn I, hạng 12); và Lữ Lan (tư lệnh Quân Ðoàn II, hạng 24). Hai sĩ quan tốt nghiệp trở thành tướng của quân chủng Không Quân là Chuẩn Tướng Võ Dinh (tham mưu trưởng Không Quân VNCH) và Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh (chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân). Hai Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu (Á khoa, tư lệnh Phó Quân Ðoàn III, khi bị tai nạn súng chết) và Lâm Quang Thơ. Tướng Thơ và Thi đều trở về trường mẹ, làm chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia.

Từ Khóa 4 (Khóa Lý Thường Kiệt, tháng 11.1951 - tháng 12.1951) đến Khóa 10 (Khóa Trần Bình Trọng, tháng 10.1953 - tháng 6.1954) trường đào tạo thêm 23 tướng lãnh. Phần lớn là những tướng hành quân/tác chiến, hơn là tướng tham mưu/hành chánh. Khóa 4 có hai trung tướng là Nguyễn Văn Minh (tư lệnh QÐ III, 1972) và cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh (tư lệnh QÐ IV khi tử nạn tháng 5, 1970). Hai sĩ quan kia là Chuẩn Tướng Ðỗ Kiến Nhiểu (Ðô Trưởng Sài Gòn) và Thủ khoa Nguyễn Cao Albert (giải ngũ). Riêng tên của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh được đặt cho hai khóa tốt nghiệp sĩ quan của QLVNCH: Khóa 6/1970 Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức, và Khóa 26 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.

Khóa 5 Hoàng Diệu (8.1951 - 5.1952), với 225 sĩ quan tốt nghiệp, là khóa đào tạo nhiều tướng lãnh nhất: 10 sĩ quan cấp Tướng. Các trung tướng Nguyễn Văn Toàn; Nguyễn Vĩnh Nghi; Phạm Quốc Thuần; Dư Quốc Ðống; Phan Trọng Chinh. Hai thiếu tướng Trần Bá Di và Ðỗ Kế Giai. Các chuẩn tướng Trần Văn Cẩm; Chương Dzếnh Quay; Lê Văn Tư. Có ba đại tá tốt nghiệp khóa này cũng được nhắc đến nhiều là Dương Hiếu Nghĩa (thủ khoa, liên hệ đến vụ đảo chánh 1.11.1963); Phạm Văn Liễu (ra trường hạng 19, liên hệ đến nhiều vụ đảo chánh); và Lê Ðức Ðạt (hạng 20, tư lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh khi bị mất tích ở Tân Cảnh tháng 4, 1972).

Khóa 6 Ðinh Bộ Lĩnh (12.1951 - 10.1952; 181 sĩ quan tốt nghiệp) có ba chuẩn tướng Lý Tòng Bá (Thủ khoa); Trần Quang Khôi (hạng 6); và Trần Ðình Thọ (hạng 79). Nhà văn Trung Tá Nguyễn Ðạt Thịnh cũng đến từ khóa này.

Khóa 7 có Chuẩn Tướng Trương Quang Ân (Thủ khoa, tử nạn trực thăng năm 1968); Lê Văn Thân; và Trần Văn Hai.

Khóa 8 có Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, và Chuẩn Tướng Huỳnh Thới Tây (tư lệnh Cảnh Sát Ðặc Biệt).
Khóa 9 không có sĩ quan tốt nghiệp nào lên tướng.

Khóa 10 Trần Bình Trọng (10.1953 - 6.1954) là khóa đông nhất của 10 khóa đầu tiên, với 400 sĩ quan tốt nghiệp. Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo (hạng 18); hai chuẩn tướng Vũ Văn Giai và Trần Văn Nhật.

Mười khóa đầu của trường Võ Bị Quốc Gia đào tạo tất cả 40 tướng trong số 80 tướng hiện dịch của năm 1974 (80 tướng hiện dịch không kể tướng của quân chủng Hải Quân hay ngành Quân Y).

Trong khi 10 khóa đầu đào tạo nhiều tướng lãnh chỉ huy của QLVNCH, các Khóa 11 đến 20 đào tạo nhiều sĩ quan trung cấp, cột trụ của quân đội. Những sĩ quan cấp trung tá và đại tá của Khóa 14-18 hiện diện và chỉ huy hầu hết các đơn vị chủ lực của QLVNCH. (iv) Khóa 16 Ấp Chiến Lược (226 sĩ quan tốt nghiệp; Thủ khoa Bùi Quyền) có nhiều sĩ quan đã lên đến cấp bậc trung tá hay đại tá, chỉ huy Trung Ðoàn hay Lữ Ðoàn trong quân đội.

Hai Khóa 19 và 20 thì có nhiều sĩ quan tiểu đoàn trưởng. Khóa 19 có 394 sĩ quan tốt nghiệp và là khóa kém may mắn nhất: ba sĩ quan vừa tốt nghiệp vài ngày đã tử trận ngay ở chiến trường, trong đó Thủ khoa Võ Thành Kháng (trận Bình Giả). Khóa 20 được coi là đông nhất (406 tốt nghiệp; Thủ khoa Trần Thanh Quang). Khóa 22B là khóa đầu tiên ra trường với trình độ văn hóa bốn năm. Nhưng khóa cũng không được may mắn khi Thủ khoa Nguyễn Thanh Phóng bị tử trận vài tháng sau đó, trong cuộc hành quân đánh qua đánh qua Cam Bốt năm 1970.

Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools
Ðây là tài liệu nghiên cứu về Lịch Sử Quân Ðội Quốc Gia, hệ thống sĩ quan, và các trường huấn luyện quân sự. Tác giả James Nach đi ngược về năm 1939, khi Cao Ủy Ðông Dương, Tướng Catroux, bắt đầu tuyển mộ và huấn luyện sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp và cho quân đội thuộc địa trong tương lai. Ðây không phải là một thiện chí của chánh phủ Pháp đối với người dân thuộc địa, đây chỉ là một phòng hờ cho Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu nhen nhúm.
Tài liệu nói về một số trường đào tạo cấp chỉ huy quân sự từ năm 1939 trở đi như, Nội Ứng Nghĩa Ðinh và Nội Ứng Nghĩa Quân. Theo tác giả Nach, Trung Tướng Văn Thành Cao và Trình Minh Thế của quân đội Liên Minh Cao Ðài được huấn luyện từ trường này. Người Pháp cũng lập ra một vài trường huấn luyện quân sự cho các Giáo pháo.
Trường huấn luyện Cái Vồn của Hòa Hảo là nơi xuất thân của các Tướng Trần Văn Soái, Cao Hảo Hớn, Lâm Thành Nguyên. Tác giả cho biết sau khi trường Cái Vồn bị đóng cửa, một số sinh viên được phép ghi danh nhập học trường Võ Bị ở Huế. Những trường khác được nhắc tên trong giai đoạn này như Trường Móng Cay, Trường Quân Chính, trường Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn (một trường quân sự chính trị do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lập).

Năm 1946-47, Ðảng Ðại Việt của Trương Tử Anh thiết lập trường huấn luyện quân sự Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Trường khai giảng ở Thanh Hóa, nhưng sau đó vì áp lực của Việt Minh nên phải dời về Yên Bái, và sau cùng về vùng Chapa gần biên giới Việt-Trung. Trường này đôi khi còn được gọi là trường Sĩ Quan Yên Bái. Những người đã theo học trường này gồm có Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu; Ðại Tá Phạm Văn Liễu; Ðại Sứ Ðinh Trình Chính (đại sứ ở Thái Lan); Ðại Sứ Ngô Tôn Ðạt (đại sứ ở Ðại Hàn); và ký giả Nguyễn Tú (nhật báo Chính Luận). (v)
Cũng trong thời gian 1938-1940, quân đội Pháp thiết lập hai trường huấn luyện Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan thành sĩ quan (vi) ở Thủ Dầu Một và Tong. Ðại Tướng Dương Văn Minh, và Tổng Trưởng Tư Pháp Lê Văn Thu theo học Trường Thủ Dầu Một; trường Tong thì có những sĩ quan tốt nghiệp như các Trung Tướng Trần Văn Ðôn; Linh Quang Viên; Nguyễn Văn Vỹ; và Trần Văn Minh.

Sau Ðệ Nhị Thế Chiến, Bộ Tư Lệnh Quân Ðội ở Ðông Dương gia tăng tuyển mộ lính thuộc địa cũng như huấn luyện cấp chỉ huy để phục vụ ở những đơn vị này. Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân Viễn Ðông được thành lập tháng 7, 1946 tại Ðà Lạt. Trường chỉ khai giảng một khóa duy nhất, với 16 sĩ quan tốt nghiệp. (vii) Những sĩ quan tốt nghiệp trường này gồm có hai Ðại Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm; Trung Tướng Trần Ngọc Tám và Dương Văn Ðức; các Thiếu Tướng Nguyễn Văn Kiểm (Chánh Võ Phòng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu); Lâm Văn Phát; Bùi Hữu Nhơn; Cao Hảo Hớn; và Dương Ngọc Lắm.

Năm 1947-1948, trường được dọn Vũng Tàu và có tên mới là École Militaire Nuoc Ngot (Trương Võ Bị Nước Ngọt, Vũng Tàu). Những sĩ quan tốt nghiệp trường này có cố Trung Tướng Ðỗ Cao Trí; Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Trang (Tham Mưu Phó/Nhân Viên, Bộ Tổng Tham Mưu); Ðại Tá Trang Văn Chính (Chỉ Huy Phó Chiến Tranh Chính Trị); và Ðại Tá Bùi Quang Ðịnh (Bộ Chiêu Hồi).

Trong 5 năm, 1949-1953, một trung tâm huấn luyện hoàn hảo sĩ quan được thành lập ở Cap St. Jacques. Trung tâm huấn luyện năm khóa. Khóa 1 có những sĩ quan tốt nghiệp như cố Ðại Tướng Cao Văn Viên; cố Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi; Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh; và Ðại Tá Vũ Quang Tài.

Như đã nói ở phần đầu bài viết, năm 1948, một trường đào tạo sĩ quan được thành lập ở Huế để bắt đầu lịch sử Trường Võ Bị Quốc Gia. Tác giả James Nach đã sơ lược về Trường Võ Bị Quốc Gia. Cũng trong cùng tài liệu, ông Nach sơ lược về lịch sử Trường Liên Quân Võ Khoa Thủ Ðức. Tài liệu này cũng công phu không kém tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia. Vì khuôn khổ giới hạn của bài viết, ở đây chỉ tóm tắt lại những chi tiết đáng ghi nhớ.
Nguyên thủy lúc thành hình là trường Sĩ Quan Trừ Bị Thu Duc va Nam Dinh (Les Écoles des Cadres de Réserve de Thu Duc et Nam Dinh), với Khóa 1 Lê Văn Duyệt được khai giảng ngày 1 tháng 10-1951 ở hai nơi, Thủ Ðức và Nam Ðịnh. Thủ Ðức có 278 sĩ quan tốt nghiệp; Nam Ðịnh có 218. Khóa 1 đào tạo tất cả 19 tướng lãnh cho QLVNCH, trong đó có bốn trung tướng Trần Văn Minh, Nguyễn Ðức Thắng, Lê Nguyên Khang, và Ðồng Văn Khuyên (Á khoa). Sau Khóa 1, trường dời về Thủ Ðức.

Trong mười khóa đầu tiên, Khóa 4 Cương Quyết (12.1953 - 6.1954) và Khóa 5 Vì Dân (6.1954 - 2.1955) có số sinh viên tốt nghiệp nhiều nhất, 1,148 sĩ quan cho Khóa 4; 1,396 cho Khóa 5. Khóa 4 có được 5 sĩ quan lên cấp tướng: cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng; Thiếu Tướng Bùi Thế Lân; cố Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và Hồ Trung Hậu; và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Ðiềm. Khóa 5 có Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng. trừ những sĩ quan Tướng lãnh, Khóa 4 có nhiều sĩ quan cấp Trung Tá và Ðại Tá chỉ huy những đơn vị chủ lực của QLVNCH. Nhìn lại lịch sử cuộc chiến, đây là những sĩ quan đứng mũi chịu sào của giai đoạn khói lửa 1965-1972. Theo tài liệu của James Nach, từ năm 1951 đến năm 1965, Thủ Ðức đào tạo 20,927 sĩ quan. Ðến tháng 9, 1973, có tất cả 80,115 sĩ quan tốt nghiệp từ trường.
(viii)



Chú thích:

(i) Allan E. Goodman, An Institutional Profile of the South Vietnamese Officer Corps. Rand Research, RM-6189-ARPA, June 1970 (declassified 1992). Tài liệu này được bắt đầu thực hiện vào năm 1967, thời gian này vẫn còn nhiều xung đột giữa hai nhóm tướng lãnh, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Trong tài liệu, ngoài một số chi tiết cá nhân của các tướng lãnh, tác giả Goodman còn phân loại ra tướng lãnh thuộc phe nhóm nào.

(ii) The National Military Academy and Its Prominent Graduates, James Nach, American Ambassy Saigon, Airgram A-95, May 13, 1974; Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its, James Nach, airgram A-131, no date.

(iii) Một số sĩ quan tốt nghiệp Khóa 3 Trần Hưng Ðạo không đồng ý gọi đó là Khóa 3, mà là Khóa 1 Ðà Lạt. Ðại tá Bùi Dzinh, thủ khoa khóa Trần Hưng Ðạo (11 tháng 10,1950 - 24 tháng 6, 1951) trong một lá thư viết cho ban biên tập Nội San Ða Hiệu (Ða Hiệu, Số 43, phát hành 19 tháng 6, 1996, trang 247-149), nói ý kiến của ông là, vì trường bắt đầu một tiến trình mới của quân đội, không có liên hệ với trường Sĩ Quan Hiện Dịch Ðập Ðá ở Huế, nên ông không gọi đó là Khóa 3. Ông viết, “Tôi không muốn tranh ngôi thứ của khóa, chỉ nhằm nói lại cho danh chánh ngôn thuận mà thôi.” Trung Tướng Lữ Lan, cũng khóa Trần Hưng Ðạo, thì nói, vì mình kính trọng hai lớp đàn anh đi trước, nên gọi đó là Khóa 3. Trong bài viết này, Khóa 3 là khóa bắt đầu ở Ðà Lạt.

(iv) Dĩ nhiên chúng ta không thể không nhắc đến sĩ quan tốt nghiệp từ Trường Võ Bị Liên Quân Thủ Ðức. Tuy nhiên đó là một đề tài khác. Khóa 14 Ðà Lạt tương đương với Khóa 8 Thủ Ðức, cùng ra đầu năm 1960. Khóa 20 Ðà Lạt (11-1965) và Khóa 20 Thủ Ðức cũng tốt nghiệp cùng thời gian (12-1965; năm 1965 Thủ Ðức cho ra trường ba khóa, 18, 19, và 20).

(v) Theo lời ký giả Nguyễn Tú kể, thì đại sứ chỉ học trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn trong thời gian ở Yên Bái, và bỏ dở chương trình lúc trường dọn về Chapa.

(vi) Trường Hạ Sĩ Quan Thành Sĩ Quan, còn gọi là Trường Hoàn Hảo Sĩ Quan - Centre de Perfectionnement des Sous Officiers Indochinois.

(vii) Tài liệu của James Nach nói 16 sĩ quan tốt nghiệp, trong khi sách quân sử VNCH Quân Lực Việt Nam Trong Giai Ðoạn Hình Thành nói chỉ có 10 sĩ quan tốt nghiệp.

(viii) Vì khuôn khổ giới hạn, người viết sơ lược đến đó. Ðọc giả có thể tìm tài liệu này ở hai nơi: Vietnam Center, Texas Tech University, Lubbock, Texas; hay, Cornell University, Ithaca, New York.


Tuesday, March 29, 2016

Cuộc chiến tết Mậu Thân ở Sài Gòn

Cuộc chiến tết Mậu Thân ở Sài Gòn
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Trong số những nơi bị tấn công, hai địa điểm quan trọng nhứt mà cộng sản (CS) nhắm tới là hai thành phố Sài Gòn và Huế.

1. Lý do Cộng sản tấn công Sài Gòn

Sài Gòn là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Toàn thể bộ máy chính quyền trung ương, kể cả Bộ tổng tham mưu quân đội VNCH đều đóng tại đây. Sài Gòn còn là nơi tập trung tòa đại sứ các nước trên thế giới, trụ sở các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước.

Báo chí VNCH hầu hết xuất bản ở Sài Gòn. Dân chúng Sài Gòn đông đúc, hoạt động náo nhiệt suốt ngày nên CS dễ len lỏi, tuyên truyền, gây chấn động. Cộng sản quyết tấn công Sài Gòn mạnh mẽ để gây tiếng vang lớn trên thế giới, nhứt là Hoa Kỳ, lúc đó tại đây phong trào phản chiến đang lên cao.

Trong năm 1968, CSVN tấn công Sài Gòn hai lần: Lần thứ nhất từ 31-1 đến 29-2-1968 (Tết Mậu Thân). Lần thứ hai từ 5-5 đến 18-6-1968. (Không thuộc phạm vi bài nầy.) Vì tầm quan trọng của mặt trận Sài Gòn, trong cuộc tổng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân, CS giao cho những nhân vật cao cấp điều khiển trận đánh tại đây. Đó là Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt làm bí thư và phó bí thư. 

Có tài liệu cho biết Võ Văn Kiệt đã ẩn náu trong nhà của Thẩm Thúy Hằng ở Sài Gòn trong thời gian nầy. Thẩm Thúy Hằng là tài tử điện ảnh ở Sài Gòn, cháu ngoại Tôn Đức Thắng và là vợ của Nguyễn Xuân Oánh, đã từng làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế tài chánh kiêm tổng trưởng Bộ tài chánh của chính phủ Nguyễn Khánh ngày 8-2-1964. (Chính Đạo, Mậu Thân 68, thắng hay bại?, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1998, tr. 253, phần phụ chú.) (Ngoài tài liệu của Chính Đạo, người viết dò hỏi những người lớn tuổi nguyên quán Long Xuyên (hiện ở Toronto), đều được xác nhận Thẩm Thúy Hằng là cháu ngoại của Tôn Đức Thắng, lãnh tụ CS Bắc Việt Nam.)

Dưới quyền Nguyễn Văn Linh, hai bộ chỉ huy tiền phương phụ trách hai mũi tấn công: Mũi phía đông và phía bắc do Trần Văn Trà (thiếu tướng) chỉ huy, Mai Chí Thọ và Lê Đức Anh phụ tá, dự tính đánh vùng phát tuyến Quán Tre (thuộc Hóc Môn, vùng quân trường Quang Trung), phi trường Tân Sơn Nhứt, Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH và các căn cứ quân sự vùng Gò Vấp. 

Mũi phía tây nam và nam do Võ Văn Kiệt chỉ huy, Trần Bạch Đằng phụ tá, có nhiệm vụ chiếm các cơ quan chính phủ VNCH, Tòa đại sứ Mỹ, tổ chức “chính quyền cách mạng”, lo việc quân quản.

2. Cộng sản tấn công

Mở đầu cuộc tấn công Sài Gòn, khuya mồng 1 sáng mồng 2 Tết (khuya 30 sáng 31-1-1968), CS tung các toán đặc công (còn gọi là biệt động thành), đánh phủ đầu cùng một lúc các vị trí quan trọng sau đây nhằm gây rối loạn chính quyền VNCH:

Dinh Độc Lập: Dinh Độc Lập (ĐL) là phủ tổng thống VNCH. Tổng thống Thiệu nghỉ Tết ở quê vợ tại Mỹ Tho. Khoảng 2 giờ sáng mồng 2 Tết (31-1-1968), đặc công CS chiếm một cao ốc ở góc đường Nguyễn Du và Thủ Khoa Huân, bên hông phải dinh ĐL nếu so với mặt trước dinh Độc Lập nhìn ra. Từ cao ốc nầy, đặc công dùng súng B-40 đánh sập cửa bên hông dinh ĐL, trên đường Nguyễn Du, tràn vào vườn, nhưng bị lực lượng phòng vệ bên trong đánh trả, khiến bốn đặc công chết tại chỗ, hai bị bắt và số còn lại rút về cố thủ trong cao ốc. Hai ngày sau Cảnh sát đến giải tỏa. Kết quả đặc công chết 7, bị bắt 8, trốn thoát 3. 

Tòa đại sứ Hoa Kỳ (cửa chính nhìn ra đường Thống Nhất): Khoảng 2G.30 sáng mồng 2 Tết (31-1-1968), đặc công CS dùng một chiếc xe, đổ quân tại một điểm trên đường Mạc Đĩnh Chi, bên hông trái tòa đại sứ nếu từ cửa chính nhìn ra đường Thống Nhất. Dùng súng B-40, CS phá một lỗ hổng trên tường, một đặc công xâm nhập vào trong, mở cổng hông tòa đại sứ cho đồng đội tràn vào sân vườn. Quân Mỹ cứu viện đến kịp thời. Đặc công lần lượt bị bắn hạ. Tòa đại sứ được giải tỏa sau 6 giờ giao tranh. Kết quả 19 đặc công chết, phía Mỹ 5 tử thương.

Đài phát thanh Sài Gòn: Khoảng gần 3G. sáng mồng 2 tết (31-1-1968), đặc công CS ngụy trang một xe Quân cảnh Mỹ, dẫn theo sau một xe dân sự, đậu trước Đài phát thanh, bất ngờ tấn công toán gác cổng, đột nhập vào bên trong. Cộng sản nhắm mục đích cho phát thanh lời CS kêu gọi dân chúng “tổng khởi nghĩa”, chống chính phủ VNCH. 

Tuy nhiên, thiếu tá Vũ Đức Vinh, giám đốc Đài phát thanh, đã kịp thời tháo được bộ phận chính trong đài phát thanh Sài Gòn. (Theo lời kể của cựu trung tướng Nguyễn Bảo Trị cho người viết vào tháng 3-2012 tại California.) Đồng thời cánh quân CS đánh Quán Tre (Hóc Môn) không chiếm được đài phát tuyến tại đây, nên lời hiệu triệu của CS không đưa lên phát thanh được. 

Tiểu đoàn 1 Nhảy dù được gởi đến để giải tỏa Đài phát thanh. Quân CS không thực hiện được dự mưu, khoảng 7 G. sáng, CS đặt chất nổ phá hủy Đài phát thanh rồi bỏ trốn, nhưng chỉ có hai đặc công trốn thoát.

Ngoài ba vị trí quan trọng trên đây, các toán đặc công CS còn đánh bộ Tư lệnh Hải quân đặt ở Trại Bạch Đằng, trên bờ sông Sài Gòn, cổng số 5 bộ Tổng tham mưu trên đường Võ Tánh (Gia Định), cổng Phi Long phi trường Tân Sơn Nhứt. Những cuộc tấn công nầy nhanh chóng bị tiêu diệt ngay trong ngày 31-1-1968.

Tiếp theo cuộc xung kích của các toán đặc công, là cuộc tấn công của hai cánh quân chủ lực cùng một lúc. Sáng mồng 2 Tết (31-1-1968), bộ chỉ huy tiền phương CS, mũi phía đông và phía bắc do Trần Văn Trà (thiếu tướng) chỉ huy, đánh vào bộ Tổng tham mưu, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, bộ Chỉ huy Thiết giáp (trại Phù Đổng), bộ Chỉ huy Pháo binh (trại Cổ Loa), Trường Bộ binh Thủ Đức, phi trường Tân Sơn Nhứt và khu vực Hàng Xanh. Tại các căn cứ quân sự, tuy có nơi CS tràn vào bên trong khuôn viên, nhưng đều bị đẩy lui nhanh chóng trong ngày mồng 2. 

Tại trại Phù Đổng, CS bắt giết một số quân nhân, trong đó có hai trung tá Huỳnh Ngọc Diệp và Nguyễn Tuấn. Gia đình trung tá Tuấn gồm 10 người, thì 9 người bị giết, một em bé 10 tuổi bị thương và sống sót. 

Tại phi trường Tân Sơn Nhứt, CS vào được phía bắc phi đạo, nhưng bị chận đánh, phải rút lui vào buổi tối. Riêng vùng Hàng Xanh, con đường chính dẫn ra quốc lộ 1 về hướng bắc, là khu dân cư đông đúc, việc giải tỏa khó khăn vì sợ dân chúng bị thiệt hại, mãi đến chiều hôm sau mới chấm dứt.

Mũi tây nam và nam CS do Võ Văn Kiệt chỉ huy, tấn công Biệt khu thủ đô trên đường Lê Văn Duyệt. Cộng sản đưa quân đột nhập thành phố, chiếm một số khu vực từ đường Trần Quốc Toản lên trường đua Phú Thọ. Quân lực VNCH đánh đuổi và giải tỏa vùng nầy khá vất vả vì CS lẫn lộn trong dân chúng, ẩn núp những nơi đông dân cư. 

Một cánh quân khác của CS từ Long An đánh một số cứ điểm thuộc Quận 7, quận 8 và quận Nhà Bè, chiếm khu Tân Thuận. Một đơn vị CS vào khu Lò Gốm, hãng rượu Bình Tây. Cuối cùng, CS thất bại phải rút lui khỏi các vùng trên.


3. Cuộc phản công của quân đội VNCH 

Ngoài những đơn vị có nhiệm vụ canh gác, bảo vệ cơ quan và căn cứ như Cảnh sát Quốc gia, Cảnh sát Dã chiến, Quân cảnh... thì các lực lượng Nhảy dù (ND), Biệt động quân (BĐQ) Thủy quân lục chiến (TQLC), Không quân VNCH và Thiết giáp là những đơn vị có mặt sớm nhứt, chống trả mạnh mẽ các cuộc tấn công vào Sài Gòn của CS. 

Khi trận đánh xảy ra, hai tiều đoàn ND đang có mặt ở Sài Gòn là tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 8. Hai tiểu đoàn nầy được điều động ngay khi đặc công CS mới khởi động. Lúc đó, liên đoàn 5 BĐQ gồm 4 tiểu đoàn 30, 33, 34 và 38 trấn đóng vòng quanh từ Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Hóc Môn được đưa về bảo vệ thủ đô khi trời chưa sáng. 

Sáng mồng hai (31-1-1968), khoảng 6G:30, tiểu đoàn 4 TQLC được không vận từ Vũng Tàu và tiểu đoàn 1 và 2 TQLC được không vận từ Cai Lậy (Định Tường) về Sài Gòn.

Khi CS mở cuộc tấn công Sài Gòn, tổng thống Thiệu đang nghỉ Tết tại Mỹ Tho. Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ liền ra lệnh phải nhanh chóng tái chiếm Đài phát thanh Sài Gòn. Sau khi lực lượng ND giải tỏa Đài phát thanh, ông Kỳ loan báo tin CS xâm nhập thủ đô và yêu cầu dân chúng không được ra đường phố. Lúc đó, dân chúng mới biết tin CS tấn công chứ không phải đảo chánh xảy ra như trước đây.

Trong khi đó, tổng thống Thiệu về được bộ Tổng tham mưu ở Sài Gòn sáng mồng 2 Tết (31-1-1968). Ngày mồng 3 Tết (1-2), tổng thống họp Hội đồng nội các, ra lệnh giới nghiêm trong thủ đô từ 7G. tối đến 6G. sáng, trường học tạm đóng cửa, công chức được tạm nghỉ, trừ nhân viên y tế, an ninh, thông tin. Hôm sau (2-2), tổng thống họp Hội đồng An ninh Quốc gia và các lãnh tụ Quốc hội nhằm tìm biện pháp đối phó với tình thế. Tổng thống lên truyền hình và truyền thanh trình bày tình hình và trấn an dân chúng.

Ngày 3-2-1968, sắc lệnh số SL-044/TT của tổng thống thiết lập Ủy ban Cứu trợ Nhân dân tại trung ương và các địa phương do phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu. Ông Kỳ điều động 2,500 cán bộ Xây dựng Nông thôn từ Vũng Tàu về Sài Gòn, đặc trách các trại tỵ nạn. Số tỵ nạn chiến tranh riêng tại Sài Gòn lên đến 86,000 người vào ngày 7-2-1968 và lên gần 200,000 người vào cuối tháng nầy.

Trong khi đó, ngày 5-2-1968, chiến dịch Trần Hưng Đạo được tổ chức do đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, làm tư lệnh nhằm giải tỏa Sài Gòn-Chợ Lớn. Ngoài quân đội và cảnh sát VNCH, lực lượng Hoa Kỳ cũng tham gia chiến dịch nầy. 

Chiến dịch Trần Hưng Đạo chấm dứt ngày 17-2-1968. Công việc truy quét CS được giao lại cho trung tướng Lê Nguyên Khang, tư lệnh Quân đoàn III. Từ đây là chiến dịch Trần Hưng Đạo II, tiếp tục hành quân tảo thanh CS. Mặt trận Sài Gòn xem như tạm yên từ ngày 29-2-1968, nhưng công việc bình định vẫn tiếp tục cho đến ngày 8-3-1968 thì chiến dịch Trần Hưng Đạo II chấm dứt.

4. Kết quả

Kết quả thiệt hại trong các trận đánh tại thủ đô Sài Gòn vào tháng 2 và tháng 3-1968 được ghi nhận như sau: Phía VNCH: 323 tử thương, 907 bị thương. Phía CSVN: 5,289 tử thương, 415 bị bắt. (Viết bài nầy, người viết dựa vào các tài liệu chính sau đây:

1) Phạm Văn Sơn cùng nhiều tác giả, Cuộc tổng công kích-Tổng khởi nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968.

2) Chính Đạo, Mậu Thân 1968, thắng hay bại.

3) Don Oberdorfer, Tết!

Còn tiếp bài 5: Cuộc chiến Mậu Thân ở Huế.

Bài đã đăng:


(Toronto, 27-3-2016) 

Cuộc chiến Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà


Cuộc chiến Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà
Trần Gia Phụng (Danlambao) - Cuộc tổng tấn công của CS nhân dịp Tết Mậu Thân (1968) diễn ra trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), từ Quảng Trị đến Bạc Liêu, sớm nhất tại Quảng Nam và Nha Trang, vào đêm giao thừa ở Nam Việt Nam (NVN) tức đêm 29 rạng 30-1-1968, và rút lui trễ nhất tại Huế vào ngày 25-2-1968. Như vậy cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của CS diễn ra trong gần một tháng. Trong suốt tháng nầy, CS tấn công 44 địa điểm tại các thị trấn, tỉnh lỵ và thành phố trên toàn miền Nam Việt Nam.

1.- Vùng I chiến thuật

Vùng I Chiến thuật (CT) gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngãi. Cuộc chiến tại Quảng trị và Thừa Thiên sẽ trình bày sau. 

Tại tỉnh Quảng Nam, vào khoảng giao thừa, tức tối 29 rạng 30-1-1968, CS pháo kích trại định cư Trà Kiệu ở phía nam thành phố Đà Nẵng khoảng 30 cây số, bắn vào phi trường Non Nước (một phi trường quân sự nhỏ gần Ngũ Hành Sơn, và Đà Nẵng, bên sông Hàn) và bắn vào phi trường Đà Nẵng. 

Sau 3 giờ sáng mồng 1 Tết (30-1-1968), CS đột nhập bộ Tư lệnh QĐ I ở Đà Nẵng. Các đợt tấn công nầy đều bị đẩy lui. Cộng sản xách động dân chúng tập họp trước chùa Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng (đường Ông Ích Khiêm) để biểu tình, liền bị dẹp yên. 

Cũng sau 3 giờ sáng mồng 1 Tết, CS tấn công thị xã Hội An, nhưng quân VNCH được các đại đội Đại Hàn và Hoa Kỳ trợ lực, đến giải tỏa ngay. 

Cũng trong ngày mồng 1 Tết, cộng quân pháo kích vào bộ chỉ huy Trung đoàn 51 Bộ Binh ở gần Vĩnh Điện trên quốc lộ 1, giữa Đà Nẵng và Hội An, và tối hôm đó, CS tấn công tiền đồn quân lực VNCH trên đèo Hải Vân (thuộc quận Hòa Vang, Quảng Nam), nhưng bị đẩy lui.

Tại tỉnh Quảng Tín, trước đây là phần phía Nam của tỉnh Quảng Nam tách ra, từ 4 giờ sáng mồng 2 Tết (31-1-1968), cộng quân đồng loạt pháo kích các đơn vị quân sự, hành chánh tỉnh lỵ Tam Kỳ và vùng phụ cận, tung 4 tiểu đoàn từ nhiều mặt tấn công Tòa hành chánh và Tiểu khu Quảng Tín, nhưng thất bại trong ngày hôm đó.

Quảng Ngãi là nơi đóng bản doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh thuộc Quân đoàn I. Được tin quân CS tấn công các nơi khác vào sáng mồng 1 Tết (30-1-1968), nên Sư đoàn 2 BB chuẩn bị phòng thủ cẩn thận. Lúc 4 giờ sáng mồng 2 Tết (1-2-1968), CS bắt đầu pháo kích, rồi xung phong tấn công các cứ điểm hành chánh và quân sự Quảng Ngãi. Sư đoàn 2 BB sử dụng thiết vận xa đẩy lui các đợt tấn công của CS. Tuy nhiên, bộ đội CS xâm nhập được vào lao xá, thả trên 500 tù nhân. Gần sáng, phi cơ can thiệp kịp thời, quân CS phải rút lui.

2.- Vùng II chiến thuật

Vùng II CT gồm các tỉnh duyên hải Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và các tỉnh cao nguyên là Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức (Đà Lạt), Lâm Đồng.

Tại thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định) là nơi chính quyền VNCH bắt được 10 cán bộ CS ngày 29-1-1968 (30 tháng Chạp đinh mùi) trong đó có một tỉnh ủy viên CS cùng nhiều tài liệu quan trọng báo hiệu CS sẽ tổng tấn công trong dịp Tết. 

Sáng hôm sau (30-1-1968 tức mồng 1 Tết) khoảng sau 4 giờ, quân CS tấn công Khu 22 An ninh Quân đội, giải thoát những người bị bắt, chiếm ty Thông tin và Đài phát thanh Quy Nhơn. Tiểu khu Bình Định phối hợp cùng Sư đoàn Mãnh Hổ (Nam Hàn) phản công và ngày 3-2-1968, quân CS hoàn toàn rút khỏi thị xã Quy Nhơn.

Đêm mồng 1 Tết, quân CS pháo kích và sau đó tấn công thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, nhưng bị đẩy lui trong ngày mồng 2 Tết.

Tại Nha Trang, hơn nửa giờ sau giao thừa (qua sáng 30-1-1968), quân CS pháo kích vào Trường Hải Quân, nhưng bị máy bay Không đoàn 62 chận đứng. Đến 2 giờ sáng, CS tấn công cùng một lúc vào Đài phát thanh, Tiểu khu và Tòa hành chánh tỉnh Khánh Hòa, Bộ chỉ huy 5 Tiếp vận, và Tiểu đoàn Truyền tin 651. 

Bộ đội cộng sản không tấn công vào bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt đặt tại Nha Trang. Tư lệnh LLĐB là chỉ huy trưởng Yếu khu kiêm quân trấn trưởng Nha Trang, nắm vững tình hình, và tổ chức phản công hữu hiệu. Tối mồng 2 Tết (31-1-1968), sau một cuộc ác chiến, CS rút lui. Hai bên đều thiệt hại nặng. Quân VNCH và Đồng minh tiếp tục tảo thanh vùng phụ cận Nha Trang.

Phía nam tỉnh Khánh Hòa là tỉnh Ninh Thuận, hoàn toàn vô sự trong Tết Mậu Thân. Thị xã Phan Thiết, tỉnh lỵ tỉnh Bình Thuận, bị tấn công nhiều đợt. Quân CS tấn công đợt đầu từ mồng 1 (30-1-1968) đến mồng 7 Tết (5-2-1968). Đợt thứ hai, quân CS tấn công tối 17 rạng 18-2 và bị đẩy lui ngày 20-2. Sau đó, CS còn tấn công Phan Thiết hai lần, nhưng cuối cùng hoàn toàn bị đẩy lui ngày 12-3-1968.

Dãy Trường Sơn và cao nguyên Nam Trung phần với rừng núi bạt ngàn là nơi CS hoạt động mạnh mẽ. Lực lượng VNCH và Hoa Kỳ đóng quân ở một số thị trấn trên các cao nguyên. 
Tại tỉnh Kontum, bộ đội CS tấn công thành phố Kontum bốn lần: Rạng sáng mồng 1, tối mồng 1, rạng sáng mồng 3 và rạng sáng mồng 4. Qua ngày mồng 5, CS rút lui. 

Tại thị trấn Tân Cảnh, phía bắc và cách Kontum 50 km trên quốc lộ 14, CS tấn công từ 2 giờ sáng mồng 1 Tết (30-1-1968), nhưng bị đẩy lui ngay trong ngày mồng 1. 

Pleiku, nơi Quân đoàn II VNCH đóng bản doanh, giữ một vị trí chiến lược quan trọng. Pleiku nằm về phía nam Kontum trên quốc lộ 14, và phía bắc Ban Mê Thuột cũng trên quốc lộ 14. Nếu theo quốc lộ 19 về phía đông là Quy Nhơn và theo quốc lộ 7-B về đông nam là Phú Bổn (Cheo Reo), Củng Sơn, Tuy Hòa. 

Một tiểu đoàn CS tấn công Pleiku vào ban ngày, lúc 9G. sáng mồng 1 Tết, nên bị Thiết giáp VNCH loại ngay trong ngày. Sáng mồng 4 Tết, hai trung đoàn CS tấn công Pleiku lần thứ hai, bị phi cơ VNCH và Mỹ đánh đuổi cũng ngay trong ngày. Quân cộng sản thất bại nặng tại Pleiku, phải rút lui.

Ban Mê Thuột là tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Darlac nằm về phía nam của Pleiku và Phú Bổn, phía bắc của Quảng Đức và Tuyên Đức. Khoảng 1G.35 sáng mồng 1 Tết, CS tung khoảng 3,500 quân tấn công cùng một lúc các căn cứ quân sự và cơ sở hành chánh Ban Mê Thuột, nhưng bị quân đội VNCH chận đứng. Cộng sản tiếp tục xâm nhập trong ngày mồng 2, nhưng cuối cùng phải rút lui hoàn toàn vào ngày mồng 6 Tết. Thiệt hại hai bên tại đây: CS 924 chết, 143 bị bắt trong khi VNCH 148 chết, 22 mất tích.

Lực lượng CS tấn công thành phố du lịch Đà Lạt, tỉnh lỵ của tỉnh Tuyên Đức khá trễ, vào lúc 1G.45 sáng mồng 4 Tết (2-2-1968), chiếm Biệt điện (Bảo Đại), Đài phát tuyến, Khu chợ Hòa Bình. Ngày 9-2-1968, Liên đoàn 2 Biệt Động Quân được gởi tới Đà Lạt, nhanh chóng giải tỏa Đà Lạt. Các thị trấn thuộc các tỉnh Lâm Đồng, Phú Bổn và Quảng Đức không bị tấn công.

3.- Vùng III chiến thuật

Cuộc chiến tại thủ đô Sài Gòn sẽ trình bày sau. Có lẽ để hỗ trợ cho cuộc tấn công Sài Gòn, cộng quân đưa hai trung đoàn đánh ba cứ điểm quan trọng ở Biên Hòa: phi trường, Bộ tư lệnh Quân đoàn III - Vùng III Chiến thuật, và trại Frenzel Jones (tức căn cứ Long Bình, tổng kho hậu cần của quân đội Mỹ). 

Trận đánh bắt đầu lúc 3 G. sáng mồng 2 Tết (31-1-1968). Quân CS pháo kích rồi vượt rào kẽm gai, tràn vào phi trường Biên Hòa. Trực thăng VNCH phản công; quân CS rút lui. 

Đồng thời với cuộc tấn công phi trường Biên Hòa, quân CS tấn công Bộ chỉ huy QĐ III, nhưng bị kháng cự mạnh mẽ, phải bỏ trốn vào nhà dân. 

Bộ đội CS còn tấn công trại Frenzel Jones (căn cứ Long Bình) thuộc Lữ đoàn 199 Mỹ, nhằm hỗ trợ cho toán đặc công lẽn vào phá hủy kho đạn khổng lồ nầy. Tuy nhiên, toán đặc công CS bị phát giác. Phi cơ và chiến xa nhanh chóng đẩy lui cuộc tấn công của CS. 

Ngày hôm sau, mồng 3 Tết (1-2-1968), liên quân Việt Mỹ mở cuộc tảo thanh chung quanh thành phố Biên Hòa, ổn định tình hình. Tổng kết, CS tử thương 527 người và 40 bị bắt. (Khối Quân Sử Phòng 5 Bộ Tổng Than Mưu, Cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968, Sài Gòn: 1968, tr. 340.)

Bộ đội CS còn tấn công một vài địa điểm gần Biên Hòa trong dịp Tết như Xuân Lộc thuộc Long Khánh (Bộ tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh), Tân Uyên thuộc Bình Dương và tấn công lực lượng Úc ở Bà Rịa. Trễ hơn, cộng sản đánh Tây Ninh ngày 6-2-1968 và Long An ngày 8-2-1968.

4.- Vùng IV chiến thuật

Vùng IV Chiến Thuật gồm 14 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nhưng trong dịp Tết Mậu Thân, CS tấn công mạnh ở ba tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre), Vĩnh Long và Phong Dinh (Cần Thơ).

Tại Kiến Hòa, quân CS đột nhập vào thành phố Bến Tre rạng sáng mồng 3 Tết (1-2-1968), bao vây các khu quân sự và chiếm các khu dân sự. Sau đó, khoảng 4G. sáng, CS pháo kích vào Tòa hành chánh tỉnh, Bộ chỉ huy Trung đoàn 10/SĐ 7 BB và vị trí pháo binh ở Sân vận động. Trong ngày mồng 3, các cứ điểm quân sự đã đẩy lui CS nhanh chóng. Do việc CS chiếm nhà dân để chiến đấu, tử thủ trong khu dân sự, nên khi liên quân Việt Mỹ tảo thanh CS, 90 thường dân bị chết, và 50% nhà cửa dân chúng bị hư hại nặng.(Cuộc tổng công kích..., tr. 344.) 

Cộng sản trốn trong khu dân sự, vì vậy việc đánh nhau diễn ra trong khu dân sự. Đáng lẽ phải kết án hành động của CS cố tình lấy dân làm bia đỡ đạn, trong buổi thuyết giảng ngày 25-9-2001 tại nhà thờ Riverside Church, New York, trước một cử tọa đông đảo cả ngàn người Mỹ, sư Nhất Hạnh lại nói rằng Không quân Hoa Kỳ đã thả bom tiêu diệt 300,000 ngôi nhà tại Bến Tre. (Nguyên văn: "When we learned of the bombing of the Bentre village in Vietnam, where 300,000 homes were destroyed ...”) (Nhật báo Người Việt, Orange County, California, ngày 16-10-2001.) Lúc đó, dân số thành phố Bến Tre khoảng 80,000 người. Không biết thầy Nhất Hạnh lấy ở đâu ra con số 300,000 ngôi nhà? Việc thầy Nhất Hạnh nói không đúng sự thật ảnh hưởng rất tai hại với người Tây phương. Ví dụ: Báo Maclean's, Canada, số ngày 24-9-2012, tr. 28, đăng bài “Trudeau's Big Leap”, tác giả Peter Newman viết rằng để cứu tỉnh Bến Tre, Mỹ đã phải “destroyed it to save it”. Đây là kết quả nguồn tin sai lạc từ thầy Nhất Hạnh.

Cộng sản sử dụng ba tiểu đoàn tấn công Vĩnh Long hai lần vào đầu năm Mậu Thân. Lần đầu lúc 3G. sáng mồng 2 Tết (31-1-1968), CS đánh khám đường (để giải thoát tù binh), Tòa hành chánh tỉnh, phi trường và khu vực Bến Đá - Nhà lồng chợ. Cộng sản bị đẩy lui và thiệt hại nhiều, nhất là tại phi trường. Riêng tại khu vực khám đường và Nhà lồng chợ, CS trốn trong dân chúng, mãi đến mồng 6 Tết (4-2-1968) mới bị đẩy lui hoàn toàn. Nhà lồng chợ bị CS đốt cháy. Mười ngày sau (14-2-1968), CS trở lui tấn công Vĩnh Long lần thứ hai và bị đánh đuổi hoàn toàn ngày 17-2-1968. 

Thủ phủ của Vùng IV CT và là tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh là Cần Thơ. Lúc 3G. sáng mồng 2 Tết (31-1-1968), tiểu đoàn Tây Đô 303 CS tấn công Bộ tư lệnh QĐ IV (gần trường Trung học Phan Thanh Giản) và trại Truyền tin QĐ. Trong khi đó, tiểu đoàn U Minh CS tấn công Đài phát thanh, khu Đại học. 

Trong ngày mồng 2 Tết, hai bên đánh nhau giành từng căn nhà. Đêm mồng 2, CS tạm thời rút quân. Ngày mồng 6 Tết (4-2-1968), CS tái xuất hiện, chiếm khu Đại học. Phi cơ oanh kích gây thiệt hại nặng cho khu vực nầy. Cuộc giải tỏa ở Cần Thơ cho đến tháng 4-1968 mới chấm dứt.

Kết luận

Tuy CS lợi dụng dịp hưu chiến nhân lễ Tết cổ truyền của dân tộc, bất ngờ mở cuộc tấn công trên một mặt trận rộng lớn, nhưng Quân đội VNCH khắp nước đã phản ứng kịp thời và có nơi được quân đội Đồng minh giúp đỡ, đã đẩy lui nhanh chóng các lực lượng CS. Có hai nơi chiến trận kéo dài và gây thiệt hại nặng là Sài Gòn và Huế. (Còn tiếp bài 4: Cuộc chiến ở Sài Gòn.)

(Toronto, 20-3-2016)



Bài đã đăng:


Lệnh tấn công tết Mậu Thân của cộng sản

Lệnh tấn công tết Mậu Thân của cộng sản
Trần Gia Phụng - Chiến tranh bùng nổ từ năm 1960. Khi khởi sự cuộc chiến, lực lượng cộng sản (CS) sử dụng chiến thuật du kích, đánh phá khắp nơi trong nước. Do địa hình rừng núi ở Đông Dương, Bắc Việt Nam (BVN) là hậu cứ lớn, đưa người và tiếp liệu võ khí, quân nhu và cả thực phẩm cho quân CS ở Nam Việt Nam (NVN). Đến cuối năm 1967, lực lượng CS ở NVN khá lớn mạnh, và CS nghĩ rằng đã đến lúc tổng tấn công để tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trước khi tìm hiểu lệnh tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968) của CS, xin mời theo dõi sơ lược tương quan lực lượng giữa các bên tham chiến trong trận Tết Mậu Thân (1968).

1. Tương quan lực lượng

Theo thống kê, vào tháng 12-1967, tổng cộng quân chính quy, nghĩa quân, địa phương quân thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là 678,728. (Web:-RVNAF Table.pdf Spreadsheet on troop levels and other information (*), gồm 4 quân đoàn, đóng ở 4 vùng chiến thuật. Tổng số quân trên đây gồm có lực lượng tác chiến và thành phần phụ trách hậu cứ, hành chánh, tiếp liệu quân nhu, quân y… 

Quân đội VNCH cho đến cuối năm 1967 chưa được trang bị võ khí mới, mà vẫn còn sử dụng những loại võ khí cũ như súng Carbine M1 và Carbine M2 hay súng Garant M1. Các loại súng nầy được sử dụng từ thời thế chiến thứ hai (1939-1945) ở Âu Châu. Chỉ một số ít đơn vị đặc biệt mới có súng M16. Máy bay của Không quân VNCH không thể ở lâu trên không trung nên không thể bay xa để tấn công. Nói chung, sức mạnh quan trọng trong chiến tranh hiện đại là hỏa lực của quân đội VNCH chưa được mạnh mẽ. 

Quân đội VNCH chỉ bảo vệ NVN, phòng thủ diện địa, chống trả những đợt tấn công của CS trên toàn lãnh thổ NVN. Quân đội VNCH phải dàn trải lực lượng khắp nơi để bảo vệ đất đai. Chiến thuật du kích và khủng bố của CS tuy gây thiệt hại mỗi nơi một ít, mỗi ngày một ít, nhưng tổng số thiệt hại của quân đội VNCH và quân đội Hoa Kỳ càng ngày càng nhiều.

Quân đội Hoa Kỳ có mặt trên chiến trường NVN từ đầu năm 1965, càng ngày càng đông. Vào cuối năm 1967, số quân Hoa Kỳ ở NVN là 486,000 người. (Đoàn Thêm, 1967 Việc từng ngày, Sài Gòn: Cơ sở Phạm Quang Khai, 1968, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 322). Quân đội Hoa Kỳ được trang bị tối tân và đầy đủ, hỏa lực rất mạnh cả trên bộ lẫn trên không. 

Khác với chiến tranh Triều Tiên, ở Việt Nam Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn (limited war), chỉ hành quân giữ thế thủ ở NVN, không đưa bộ binh tấn công BVN, tránh đụng chạm đến TC. Hoa Kỳ chọn lựa chiến lược nầy do Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên, Hoa Kỳ chủ trương tránh đụng độ với Trung Cộng ở Việt Nam. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.) Hoa Kỳ lo ngại nếu đánh ra BVN, thì TC sẽ can thiệp như đã từng can thiệp ở Triều Tiên năm 1951. 

Với chiến lược phòng thủ, chỉ chống trả những đợt tấn công của lực lượng CS, mà không tấn công hang ổ hậu cứ của CS ở BVN, chận đứng nguồn tiếp liệu cho quân đội CS từ BVN xuống NVN, như Hoa Kỳ đã từng đánh ra BTT mới chận đứng được CS ở NTT, quân đội Hoa Kỳ cũng như VNCH khó thành công trong việc ngăn chận chiến thuật du kích và khủng bố tấn công liên tục khắp nơi trên lãnh thổ VNCH. 

Ngoài ra chính phủ Hoa Kỳ còn buộc quân đội của mình phải tuân thủ “quy tắc tham chiến” (rules of engagement) tức quy tắc ứng xử khi lâm chiến, như một thứ cẩm nang chiến tranh. Những quy tắc tham chiến giới hạn hoạt động của phi cơ, giới hạn hỏa lực yểm trợ trên chiến trường, làm giảm sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ. 

Đầu năm 1968, quân đội CS tại NVN lên đến khoảng 129,200 quân tác chiến, kể cả quân du kích. Khi bắt đầu tổng tấn công, lực lượng nầy tăng thành 147,200 người, đa số đều trẻ tuổi, đôi khi rất trẻ. Con số thực tế có thể còn cao hơn rất nhiều. Đa số cán binh CS được gởi từ BVN vào NVN chiến đấu. (Trong lúc quân CS vào thành phố, dân chúng nghe rất nhiều cán binh CS nói giọng Bắc.)

Sinh năm 1959, nhập ngũ năm 1968 (9 tuổi), chết năm 1971 (12 tuổi).
Huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, phía bắc tỉnh Quảng Trị. (Nguồn Internet)

Lúc đầu CS áp dụng chiến thuật du kích, nay đánh chỗ nầy, mai phá chỗ khác, gây tiêu hao mỗi ngày một nhiều. Khi thấy lực lượng đủ mạnh ở một nơi nào đó, hoặc một thời điểm nào đó, CS mới chuyển từ du kích chiến qua vận động chiến, như trường hợp tổng tấn công Tết Mậu Thân.

Quân đội CS theo kỷ luật sắt, dưới quyền điều khiển của những chính ủy CS, tức ủy viên chính trị của đảng Lao Động. Riêng tại Huế, có nơi CS xích chân bộ đội vào các cổ súng máy, không thể bỏ trốn, phải chiến đấu cho đến khi bị bắn chết tại chỗ. (Nhiều tác giả, Technology and the Air Force: A Retrospective Assessement, Washington D.C: Air Force History and Museums Program, United States Air Force, 1997, tr. 129.) (Sau khi quân đội VNCH tái chiếm Huế, người viết nghe kể quân CS bị xích chân vào các khẩu súng trung liên trấn giữ trên các dãy hoàng thành chung quanh Đại nội ở Huế và bị máy bay bắn chết.)

Ngày 26-1-1968, một số cán binh CS hồi chánh tại Quảng Trị đã khai rằng BVN đưa quân vào NVN, nên BVN phải sử dụng thanh niên trong tuổi nghĩa vụ quân sự, tổ chức thành các đơn vị bảo vệ miền BVN. Thực tế từ tháng 6-1965, khoảng 320,000 viện binh Trung Quốc đã vào BVN, bảo vệ các tỉnh phía bắc Hà Nội, để quân BVN tiến xuống đánh NVN. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 135.)


Võ khí quân CS sử dụng trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân khá tối tân như súng AK 47, xe tăng T54 đều do Liên Xô viện trợ. Lãnh đạo quân cộng sản lúc đó tại NVN gồm Phạm Hùng, ủy viên bộ Chính trị đảng Lao Động, làm chính ủy, tư lệnh là trung tướng Hoàng Văn Thái (mới thay trung tướng Trần Văn Trà năm 1967), tham mưu trưởng là đại tá Lê Đức Anh.

2. Lệnh tấn công của cộng sản

Nhân dịp đầu năm dương lịch 1968, Hồ Chí Minh (HCM) gởi đến Ngoại giao đoàn ở Hà Nội, cùng các nhân viên cao cấp của đảng LĐ và nhà nước Hà Nội một thiệp chúc Tết màu hồng, trên có in bài thơ “Mừng xuân 1968” của HCM. Bài thơ nầy còn được phổ biến rộng rãi trên báo chí và trên đài phát thanh Hà Nội vào ngày Tết dương lịch (1-1-1968).

Đúng giao thừa Tết âm lịch ở BVN theo lịch mới của BVN (tối 28 rạng 29-1-1968), nghĩa là 24 giờ trước tối giao thừa ở NVN theo lịch NVN (tối 29 rạng 30-1-1968), bài thơ “Mừng xuân 1968” do HCM viết và chúc Tết dương lịch (1-1-1968), được phát lại trên đài phát thanh Hà Nội, nói là để chúc Tết đồng bào nhân dịp năm mới âm lịch, như sau: 

“Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua, 
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! 
Toàn thắng ắt về ta.”
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12: 1966-1969, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 333-334.) 

Khi đọc bài thơ trên, đến câu thơ chót (Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta), HCM đã dùng sức hét lên thật to, rất khác thường hai chữ "Tiến lên!". Sau nầy người ta mới hiểu bài thơ nầy được CS dùng làm mật khẩu ra lệnh tổng tấn công ở NVN.  
Bài thơ nầy được đài phát thanh Hà Nội lập đi lập lại nhiều lần từ đêm giao thừa đến suốt ngày mồng Một tháng giêng âm lịch (Tết) ở BVN (29-1-1968), tức là ngày 30 tháng chạp năm đinh mùi ở NVN. Như thế, trong suốt ngày hôm đó (29-1-1968), một ngày trước Tết ở NVN, quân đội cộng sản ở khắp NVN đều nghe bài nầy và biết đó là hiệu lệnh của Hồ Chí Minh chuẩn bị ra quân tấn công vào đêm giao thừa ở NVN (đêm 29 rạng 30-1-1968.).

Tại NVN, trước giờ xuất phát tấn công, bộ đội CS được nghe các cấp chỉ huy đọc nhật lệnh của bộ Tư lệnh các Lực lượng Võ trang MTDTGP. Trong lệnh đó, câu đầu tiên là câu của kết bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh: "Tiến lên, toàn thắng ắt về ta”... Điều nầy càng xác định bài thơ chúc Tết của HCM là lệnh xuất quân chiến dịch “Tổng công kích và tổng khởi nghĩa” của CS. (Don Oberdorfer, Tet!, New York: Nxb. Da Capo, 1984, sđd. tt. 75.) 

Bài thơ chúc Tết của HCM đầu năm 1968 và đầu năm Mậu Thân chính là lệnh tấn công của CSVN, và cũng là lệnh thảm sát đồng bào miền Nam Việt Nam trong Tết dân tộc năm 1968. (Còn tiếp bài 3: Cuộc chiến trên toàn lãnh thổ VNCH.)

Bài đã đăng:


(Toronto, 12-3-2016)

Tổng quát về biến cố tết Mậu Thân (1968)

Tổng quát về biến cố tết Mậu Thân (1968)
Trần Gia Phụng

1. Lý do Cộng sản mở cuộc tổng tấn công

Cộng sản Việt Nam chưa một lần lên tiếng về lý do cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân. Chỉ biết quyết định “tổng công kích và tổng khởi nghĩa” Tết Mậu Thân được đưa ra tại Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp Trung ương (BCHTƯ) đảng Lao Động (LĐ) khóa 3 tại Hà Nội vào tháng 1-1968. Trong phần “Phương hướng và nhiệm vụ của ta trong thời kỳ mới” của nghị quyết nầy, đảng LĐ cho rằng cần phải tổ chức “tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định, đạt tới mục tiêu chiến lược mà đảng ta đã đề ra là: a) Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. b) Tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở miền Nam. c) Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc...”(*).

“Tổng công kích" là một từ ngữ trong lý thuyết cách mạng cộng sản Trung Hoa (Trung Cộng), có ý nghĩa là tổng tấn công. Còn "tổng khởi nghĩa" là từ ngữ Việt Nam chỉ những cuộc nổi dậy chống ngoại xâm trong lịch sử, và đã được Việt Minh cộng sản sử dụng để gọi cuộc cướp chính quyền của họ vào năm 1945. 

Những mục tiêu ghi trong nghị quyết trên đây không phải là lý do đầy đủ đưa đến việc tổng tấn công Tết Mậu Thân. Dựa trên diễn tiến chính trị và chiến cuộc cho đến cuối năm 1967, nguyên nhân cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân có thể như sau:

Tham vọng của phái chủ chiến ở Bắc Việt Nam: Tại Liên Xô, trong Đại hội thứ 20 của đảng CS tại Moscow từ 14 đến 25-2-1956, Nikita Khrushchev đưa ra chính sách sống chung hòa bình giữa các nước không cùng chế độ chính trị. Chủ trương nầy bị Trung Cộng (TC) phản đối. Tại Bắc Việt Nam (BVN), trong đảng LĐ xuất hiện hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: 1) Nhóm bảo thủ cứng rắn theo TC, phản đối chủ trương của Khrushchev, do Lê Duẩn lãnh đạo. 2) Nhóm tán thành chủ trương của Khrushchev mà Võ Nguyên Giáp được xem là người đứng đầu. Cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng âm ỷ nhiều năm thành vụ án “chống đảng”. Nhóm cứng rắn thắng thế.

Nhóm nầy chủ trương đánh mạnh ở Nam Việt Nam (NVN), thống nhứt đất nước bằng võ lực, nghĩ rằng nếu mở cuộc tổng tấn công thì sẽ được nhân dân NVN ủng hộ, đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nhóm cứng rắn tin tưởng chắc chắn sẽ thắng lợi, đến nỗi in sẵn giấy bạc để thay tiền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ vào NVN, giữ vai trò phó bí thư Trung ương cục, phụ tá cho Phạm Hùng, cho đến tháng 5-1968 mới trở ra Bắc vì thấy không thành công. (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập II: Quyền bính, Saigon: Osin Book, 2012 (bản điện tử), tr. 100.)  
Phá hủy chính quyền Việt Nam Cộng Hòa: Tại NVN, ngày 1-4-1967 hiến pháp được ban hành, làm nền tảng cho sự thành lập chính thể Đệ nhị Cộng hòa, đồng thời chấm dứt giai đoạn khủng hoảng chính trị kéo dài trong ba năm (1964-1966). Cộng sản quyết mở cuộc tổng tấn công vào đầu năm 1968 nhằm sớm phá hủy hệ thống chính quyền VNCH mới được tái xây dựng, tiếp tục tạo khó khăn và gây bất ổn cho VNCH. 

Gây dư luận tại Hoa Kỳ: Khi Hoa Kỳ tham chiến trực tiếp tại Việt Nam, giới lãnh đạo BVN nhận thức rõ khó có thể chiến thắng được quân đội Hoa Kỳ, vì quân đội Hoa Kỳ trang bị võ khí tối tân và hùng hậu. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ phong trào phản chiến càng ngày càng lên cao, nhứt là từ 1965 đến 1967. 

Quân đội Hoa Kỳ lúc đó gồm hai thành phần:

1) Quân nhân chuyên nghiệp, tự nguyện gia nhập quân đội.

2) Quân nhân động viên, gồm những thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự một thời gian tùy theo tình hình giai đoạn. Gia đình những người thi hành quân dịch tham gia mạnh mẽ phong trào phản chiến, vận động đưa thân nhân về nước, tránh bị tai nạn chiến tranh. Luật động viên ở Hoa Kỳ được bãi bỏ ngày 27-1-1973 (Ngày ký hiệp định Paris.)

Năm 1968 là năm bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, dư luận dân chúng Hoa Kỳ rất nhạy cảm. Cộng sản tin rằng tổng tấn công vào các thành phố ở NVN năm 1968, sẽ gây chấn động dân chúng Hoa Kỳ, làm gia tăng phong trào hòa bình và phản chiến, và sẽ tạo ảnh hưởng để chính phủ Hoa Kỳ sớm rút quân khỏi Việt Nam.

Chuẩn bị hòa đàm: Cuộc vận động hòa bình do Hoa Kỳ khởi phát từ năm 1964, càng ngày càng lan rộng. Đã đến lúc các bên đối đầu sửa soạn vào bàn hội nghị thương thuyết nên BVN mở cuộc tổng tấn công nhằm tạo thế mạnh trước khi vào hội nghị. (Trên thực tế, ngày 3-5-1968, Hoa Kỳ và BVN đồng ý sẽ gặp nhau tại Paris lần đầu vào ngày 10-5-1968.) (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, Sài Gòn: Cơ sở Phạm Quang Khai, 1968. California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 156.) 

Gây bất ổn thành phố: Một hiện tượng xã hội ít được chú ý là do chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, vùng nông thôn bất ổn, nên mỗi năm có khoảng từ 500,000 đến 1 triệu dân nông thôn tránh bom đạn, bỏ ra thành thị tỵ nạn, sinh sống dưới sự kiểm soát của chính phủ VNCH. (Don Oberdorfer, Tet!, New York: Nxb. Da Capo, 1984, tr. 53.) Lúc đó, ở nông thôn CS không có dân để trà trộn trốn tránh, cũng không có dân để tiếp tế nuôi ăn, lại thiếu thanh thiếu niên để bắt lính. Vì vậy, CS đưa chiến tranh vào thành phố, làm cho dân nông thôn chạy ra thành thị quay về nông thôn, chận đứng làn sóng di chuyển từ nông thôn ra thành thị.

Khống chế mặt trận dân tộc giải phóng: Lý do cuối cùng thúc đẩy CS Hà Nội tổ chức cuộc tổng tấn công là: Khi mới thành lập năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng (MTDTGP) gồm đa số là đảng viên cộng sản miền Nam, kể cả những người gốc miền Nam ra Bắc tập kết rồi trở về, đồng thời có cả các thành phần thiên tả, không cộng sản, bất mãn chế độ VNCH, bỏ theo MTDTGP. Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh, những thành phần miền Nam không cộng sản trong MTDTGP dự tính muốn trở về hợp táp với tân chính phủ VNCH, nhưng chưa có cơ hội trở về vì tình hình miền Nam xáo trộn liên tục. (Nguyễn Khánh trả lời phỏng vấn đăng trên báo Phụ Nữ Diễn Đàn, Hoa Kỳ, số 112 tháng 5-1993. Ngoài ra xin xem Gareth Porter, Vietnam, A History in Documents, New York: New American Library, 1981, tt. 292-293, in lại bản dịch tiếng Anh thư của Huỳnh Tấn Phát gởi Nguyễn Khánh ngày 28-1-1965, do Nguyễn Khánh cung cáp.)

Giới lãnh đạo đảng LĐ ngoài Bắc không tin tưởng các thành phần nầy và cũng không tin tưởng những đảng viên CS gốc miền Nam trong MTDTGP. Nếu cuộc tổng tấn công nhân dịp Tết 1968 thành công, sẽ là một thắng lợi quan trọng cho BVN. Ngược lại, nếu cuộc tổng tấn công thất bại, và chủ lực của MTDTGP bị quân đội VNCH tiêu diệt, đối với đảng LĐ ở Hà Nội vẫn là điều có lợi, để đảng LĐ ở BVN gởi cán bộ và quân nhân từ BVN vào điền thế những đơn vị bị tiêu diệt, nắm gọn và điều khiển toàn bộ MTDTGP, mà không xảy ra tranh chấp nội bộ gay go. Về sau, một số nhân vật trong MTDTGP công khai tố cáo âm mưu nầy của đảng LĐ, trong đó có bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, trong MTDTGP. (Stanley Karnow, Vietnam A History, New York: The Viking Press, 1983, tt. 544-545.)

Với những tính toán trên đây, dầu cuộc tổng tấn công thành công hay thất bại, đàng nào đảng LĐ ở Hà Nội cũng đều có lợi, nên họ không ngần ngại mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân.

2. Tình hình trước cuộc tổng tấn công của CSVN

Tình hình Bắc Việt Nam: Tại Bắc Việt Nam (BVN), vào đầu tháng 7-1967, ở Hà Nội diễn ra các cuộc họp quan trọng của Bộ chính trị và Quân uỷ TƯĐLĐ, duyệt xét kế hoạch phát động cuộc “tổng công kích và tổng khởi nghĩa” vào dịp Tết Mậu Thân (1968) (Don Oberdorfer, sđd. 54). Đại tướng CS Nguyễn Chí Thanh (NCT), uỷ viên Bộ chính trị, bí thư Trung ương cục miền Nam (TƯCMN), kiêm chính uỷ Quân giải phóng miềnNam, từ NVN ra Hà Nội dự họp, chết tại quân y viện 108 ngày 6-7-1967. 

Việc NCT bị đột tử có hai cách giải thích: 1) Theo Don Oberdorfer, sđd. tr. 42, thì NCT ở chiến trường miền Nam, bị trúng bom và bị thương ở ngực, được đưa qua Nam Vang, rồi về Hà Nội, và chết lúc 9 giờ sáng ngày 6-7-1967 tại bệnh viện 108 Quân đội. 2) Theo nữ ký giả Judy Stowe, trong bài, "Lịch sử chủ nghĩa xét lại tại Việt Nam", Đỗ Văn dịch, Phụ Nữ Diễn Đàn, số 136,1995. (Internet: http://members.aol.com/cahen/xetlai.htm), NCT ra Bắc họp. Sau cuộc họp ngày 6-7 của Bộ chính trị và Quân uỷ trung ương, nội bộ ăn mừng. Vì quá chén, đêm hôm đó NCT lên cơn đau tim và chết. Tài liệu của Huy Đức, sđd tr. 96, cho biết sau buổi tiệc tối 5-7-1967, NCT bị chết sáng 6-7 tại bệnh viện Quân y 108 với kết luận của bệnh viện là “nhồi máu cơ tim”. Lúc đó, có tin nói NCT bị đầu độc.

Sau tang lễ NCT, đại tướng Võ Nguyên Giáp được đưa đi Hungary dưỡng bệnh. Võ Nguyên Giáp được xem thuộc thành phần xét lại thân Liên Xô, chống lại phe Lê Duẩn. Tướng Giáp trở về Hà Nội vào ngày 29 Tết tức 28-1-1968. Lúc đó, kế hoạch tổng tấn công Mậu Thân ở NVN đã được phe Lê Duẩn sắp đặt xong xuôi và nhất là những sĩ quan cao cấp thân cận với tướng Giáp trong Bộ Quốc phòng hay trong Quân ủy Trung ương đã bị phe Lê Duẩn loại bỏ. (Huy Đức, sđd. tt. 96-99.) 

Hồ Chí Minh (HCM) được đưa qua Bắc Kinh nghỉ dưỡng ngày 5-9-1967. Bộ Chính trị triệu mời HCM về nước ngày 23-12-1967, rồi sau đó ông ta lại qua Bắc Kinh chiều 1-1-1968. Lê Duẩn thay thế vai trò của HCM. (Huy Đức, sđd. tt. 97-98.) Phạm Hùng được gởi vào Nam, thay thế NCT, giữ chức bí thư TƯCMN, điều khiển cuộc chiến. (James J. Wirtz, The Tet Offensive, New York: Cornell University Press, 1994, tr. 52. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 447.)

Cũng từ giữa năm 1967, đảng LĐ bắt giam tất cả những thành phần “xét lại”, theo chủ trương sống chung hòa bình giữa những nước không cùng chế độ chính trị, nghĩa là những người trong nhóm không đồng ý với cuộc chiến xâm lăng NVN. Đó là Hoàng Minh Chính (bị bắt ngày 27-7-1967), Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang (bị bắt cùng ngày 18-10-1967). Đảng LĐ còn bách hại, khủng bố, cách chức, khai trừ ra khỏi đảng hay tù đày khoảng 43 đảng viên, cán bộ cao và trung cấp, trước khi mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968).

Để chận đứng mọi mưu toan chống lại chủ trương chính sách của đảng LĐ, nhằm tiến hành cuộc tổng tấn công NVN, nhà cầm CS ban hành pháp lệnh ngày 10-11-1967, theo đó nhà nước sẽ phạt án từ giam giữ lâu ngày đến cấm cố nhiều năm, hoặc tử hình, những người phạm tội phản cách mạng, gồm có tội gián điệp, phá hoại, chuyển ra ngoài những bí mật quốc phòng hay tài liệu của nhà nước. (Don Oberdorfer, sđd. tr. 66.)

Nhân dịp qua Liên Xô tham dự lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười Liên Xô đồng thời để xin tăng viện, Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng LĐ, ghé Bắc Kinh, trình bày kế hoạch mới theo quyết định của Bộ chính trị đảng LĐ vào tháng 7-1967 và xin quân viện.

Trung Cộng hứa gởi qua BVN 300,000 quân kể cả lực lượng phòng không và công binh. (Chính Đạo, Mậu Thân 68, thắng hay bại?, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1998, tr. 32.) Trung Cộng còn hứa cung cấp hỏa tiễn 107 ly, 240 ly, quân dụng, lương khô, thuốc men. 

Tại Moscow, Liên Xô chấp thuận cho BVN thêm đại bác 130 ly, chiến xa T54, phản lực cơ Mig 21 và các loại võ khí hạng nặng khác. (Hoàng Lạc, Hà Mai Việt, Nam Việt-Nam, 1954-1975, những sự thật chưa hề nhắc tới, Texas: 1990, tr. 77.) Cũng trong dịp nầy, để một lần nữa chứng tỏ tình thân thiện Xô-Việt, những nhà lãnh đạo Xô Viết quyết định tặng HCM huân chương Lenin. 

Theo thông lệ, khi gần đến năm mới, ngày 15-12-1967, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thông báo sẽ hưu chiến 24 giờ trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1967, 24 giờ trong dịp Tết dương lịch năm 1968, và 48 giờ trong dịp Tết âm lịch Mậu Thân. Cũng trong ngày nầy, MTDTGP đưa ra đề nghị hưu chiến 3 ngày trong dịp lễ Giáng Sinh, 3 ngày trong dịp lễ Tết dương lịch và 7 ngày trong dịp Tết âm lịch. (Đoàn Thêm, 1968, sđd. tt. 286-287.)

Trong khi đó, ngày 28-12-1967, Bộ chính trị đảng LĐ họp phiên đặc biệt do HCM, từ Bắc Kinh trở về ngày 23-12, chủ trì, quyết định tổng tấn công, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi. (Huy Đức, sđd. tr. 98.) Để làm lạc hướng dư luận và sự tính toán của các giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng như VNCH, vào ngày 30-12-1967 (trước Tết dương lịch 1968), bộ trưởng Ngoại giao Bắc Việt là Nguyễn Duy Trinh tuyên bố sẽ nói chuyện với Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ ngưng ném bom vô điều kiện. (Clark Dougan, Stephen Weiss và nhiều tác giả, The Vietnam Experience, Nineteen Sixty-Eight, Boston Publishing Company: Boston, 1983, tr. 10.) Hà Nội loan báo sẽ thả ba tù binh Hoa Kỳ vì lý do nhân đạo để đáp ứng những nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam (Chính Đạo, Mậu Thân..., sđd. tr. 17).

Cuối cùng, ngày 21-1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp Trung ương đảng LĐ khóa III họp và đưa ra nghị quyết “Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước” vào đêm Giao thừa Tết Mậu Thân tại NVN (đêm 29 rạng 30-1-1968). (Báo Nhân Dân, Hà Nội, ngày 31-1-1988, số kỷ niệm 20 năm cuộc tổng công kích.) Tấn công vào dịp hưu chiến Tết âm lịch nhằm gây bất ngờ cho NVN. 

Tuy nhiên, có một việc còn bất ngờ hơn nữa: Đó là việc BVN đổi âm lịch là lịch pháp dựa trên sự tuần hoàn của mặt trăng mà người Việt Nam quen dùng. Nguyên vào ngày 8-8-1967, nhà nước VNDCCH ra quyết định số 121/CP cho Nha Khí tượng thay đổi âm lịch, theo đó tháng chạp năm đinh mùi ở BVN không có ngày 30 âm lịch (gọi là tháng thiếu), trong khi ở NVN vẫn có ngày 30 âm lịch, nghĩa là mồng 1 Tết BVN đến trước mồng 1 Tết NVN một ngày.

Việc đổi âm lịch nầy có hai điểm đáng ghi nhận: 1) Nha Khí tượng Hà Nội xác nhận việc đổi âm lịch không theo tính toán của những nhà lịch pháp, mà theo quyết định của nhà cầm quyền Hà Nội. (Lịch thế kỷ XX, Nxb. Phổ Thông, Hà Nội, 1968, "Lời giới thiệu của Nha Khí tượng".) Như thế có nghĩa là sự thay đổi do quyết định hành chánh và chính trị chứ không phải là do nghiên cứu chuyên môn khoa học. Nếu đúng như lời trên đây của Nha Khí tượng Hà Nội, thì nhà cầm quyền CS phải có một dụng ý nào đó mới ban hành quyết định đổi lịch. Dụng ý có lẽ nhắm vào mục đích chiến dịch Tết mậu thân. 2) Việc đổi âm lịch không được thông báo trước mà chỉ cho dân chúng BVN biết khi đem ra áp dụng vào đầu năm dương lịch, tháng 01-1968, nghĩa là chỉ còn hơn một tháng là đến Tết âm lịch năm mậu thân. Điều nầy được xác nhận trong "Lời nói đầu" hoặc "Lời giới thiệu" của các lần xuất bản về sau sách Lịch thế kỳ XX, ví dụ lần xuất bản thứ hai (1977), thứ ba (1982), và thứ tư (1991)...

Tóm lại: ngày 29-1-1968 là mồng 1 Tết mậu thân ở BVN và là ngày 30 tháng chạp đinh mùi ở NVN. Ngày 30-1-1968 là mồng 2 Tết ở BVN là ngày mồng 1 Tết ở NVM. Nghĩa là dân chúng BVN và NVN mừng Tết trong hai ngày khác nhau: dân chúng BVN mừng Tết một ngày trước dân chúng NVN. Nói cách khác, dân chúng BVN mừng Tết xong rồi, CS mới tấn công ngày dân chúng NVN mừng Tết.

Tình hình Nam Việt Nam: Tại NVN, ngày 31-10-1967, liên danh đắc cử tổng thống và phó tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ nhận chức, nhiệm kỳ bốn (4) năm. Tân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh số 005/TT/SL ngày 9-11-1967 bổ nhiệm luật sư Nguyễn Văn Lộc lập chính phủ mới. Tân nội các gồm đa số là chuyên viên, không đảng phái. 

Trên chiến trường, gần cuối năm 1967, CS mở nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ ở nhiều nơi từ Lộc Ninh (tỉnh Bình Long), đến Dakto (tỉnh Kontum), Khe Sanh (tỉnh Quảng Trị). Gần Tết Mậu Thân (1968), CSVN tung quân tấn công các cứ điểm quân sự ở cao nguyên Trung phần, đưa ba sư đoàn 304, 320, 325, và hai trung đoàn Pháo binh cùng một đơn vị thiết giáp T-54, bao vây và pháo kích dữ dội Khe Sanh (Quảng Trị), gần vùng giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc, từ ngày 19-1-1968. (Nguyễn Đức Phương, Chiến tranh Việt Nam toàn tập, Toronto: Nxb. Làng Văn, 2001, tt. 379-381.) Lúc đó có ý kiến cho rằng đây có thể sẽ là một trận Điên Biên Phủ thứ hai. (John S. Bowman (tổng biên tập), The Vietnam War, Day by Day, New York: Maillard Press, 1989, tr. 119.)

Trong khi đó, CS âm thầm chuẩn bị các cuộc tấn công vào thành phố. Ngày 2-1-1968, tại cao nguyên Trung phần, quân đội Hoa Kỳ tịch thu được một tài liệu có đầy đủ kế hoạch CS tấn công Pleiku và Kontum. Ngày 15-1, tại Khe Sanh, một sĩ quan CS hồi chánh cho biết sẽ có chiến dịch lớn tại vùng giới tuyến. Với nhiều tin tức tình báo khác, Bộ tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam ra lệnh báo động và thông báo cho quân đội VNCH biết, và yêu cầu VNCH hủy bỏ lệnh hưu chiến nhân dịp Tết Mậu Thân.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, chỉ đồng ý bãi bỏ hưu chiến tại Vùng I Chiến thuật, và rút bớt 24 giờ hưu chiến trên toàn quốc. (Chính Đạo, Mậu Thân…, sđd. tt. 31-32, 344.) 

Một dấu hiệu nữa về việc CS sẽ tổng tấn công trong dịp Tết là ngày 29-1-1968 (30 Tết NVN), tại Quy Nhơn, tỉnh Bình Định (thuộc QĐ II và Vùng II CT - VNCH), chính quyền sở tại VNCH bắt được trước sau 10 cán bộ CS với những tài liệu quan trọng, trong đó có cả máy ghi âm sẵn lời phát thanh kêu gọi dân chúng tổng khởi nghĩa. Tỉnh trưởng Bình Định báo cáo vụ việc lên thượng cấp, nhưng bộ Tư lệnh Vùng II CT không quan tâm. (Chính Đạo, Mậu Thân ..., sđd. tr. 31.)

Lúc đó, dư luận chung trong cũng như ngoài nước tin tưởng vào sự hiện diện của khoảng 500,000 quân Mỹ tại Việt Nam sẽ bảo đảm an toàn cho VNCH. Hơn nữa, do CS vừa tuyên truyền vừa chuyển quân đe dọa Khe Sanh nặng nề, nên mọi người chú tâm đến trận chiến ở vùng giới tuyến, mà ít chú ý đến những diễn tiến chung quanh các thành phố, rộn rịp khác thường trong những ngày trước Tết Mậu Thân.

Dù tổng thống Thiệu đã ra lệnh giảm hưu chiến còn 24 giờ trên toàn quốc, và bãi bỏ hưu chiến ở Vùng I CT, nhưng nói chung, mọi nơi đều nô nức đón Tết, nên việc canh phòng có phần lơ là và quả thật cuộc tổng tấn công của CSVN là một trận đánh hoàn toàn bất ngờ với dân chúng miền Nam. 

Có tài liệu cho rằng cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân là một trong ba biến cố bất ngờ nhứt trong cuộc chiến Việt Nam từ 1960 đến 1975. (James J. Wirtz, sđd. tr. 28. Hai biến cố kia là: (1) Sự can thiệp và tham chiến trực tiếp của Hoa Kỳ năm 1964, mà Lê Duẩn đã phải thốt lên vào năm 1965: "Tình hình biến chuyển mau lẹ hơn là chúng tôi đã dự đoán." (2) Vụ ném bom ở Hà Nội và Hải Phòng của Không lực Hoa Kỳ vào ngày 23-12-1972.)

Một biến cố quốc tế khá quan trọng đối với Hoa Kỳ trước biến cố Tết Mậu Thân, là vào ngày 23-01-1968, tàu tuần thám Pueblo với thủy thủ đoàn 83 người của Hải quân Hoa Kỳ, đang di chuyển trong hải phận quốc tế dọc theo duyên hải Bắc Triều Tiên (BTT), bị chiến hạm BTT bắt giam. 

Dư luận Hoa Kỳ đang chú tâm theo dõi vụ Pueblo bị bắt rất căng thẳng, thì một tuần sau, nổ ra cuộc tổng tấn công của CSVN vào các thành phố khắp lãnh thổ VNCH. (Về sau, thủy thủ đoàn tàu Pueblo được BTT thả ngày 23-12-1968.) (Còn tiếp bài 2, “Lệnh tấn công”)

(Toronto, 6-3-2016)



Tuesday, March 1, 2016

Chống Mỹ cứu nước nào?

Chống Mỹ cứu nước nào?

Trần Gia Phụng
Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam dọc theo sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, ở vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở Bắc Việt Nam (BVN), do đảng Lao Động (LĐ) cai trị. Đảng LĐ là hậu thân của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD). Trong khi đó, Quốc Gia Việt Nam (QGVN) ở Nam Việt Nam (NVN), do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng. Năm sau, thủ tướng Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955, lật đổ quốc trưởng Bảo Đại và thành lập Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1955 do ông Diệm làm tổng thống.
 
Đất nước chia hai, nhưng đảng LĐ ở BVN không dừng lại ở đó. Tại Đại hội III đảng LĐ từ 5 đến 10-9-1960, đảng LĐ quyết định động binh tấn công VNCH, mà CS gọi là “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Ngoài ra, đảng LĐ còn đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” nhằm khích động lòng yêu nước của dân chúng Việt Nam và để được các nước cộng sản (CS) giúp đỡ. Tuy nhiên, có một câu hỏi mà ít người chú ý là Hồ Chí Minh (HCM) và đảng LĐ tức đảng CSĐD chống Mỹ cứu nước là để cứu nước Việt Nam hay là cứu nước nào khác?
 
1. Hồ Chí Minh tuyên bố chống Mỹ
 
Vào cuối thế chiến thứ hai, HCM và đảng CSĐD hợp tác với tổ chức OSS của Hoa Kỳ. Tổ chức OSS là Office of Strategic Services (Sở tình báo chiến lược), tiền thân của C.I.A. (Central Intelligence Agency). Giữa tháng 4-1945, HCM cùng hai nhân viên vô tuyến của O.S.S. từ Côn Minh (Kunming, Trung Hoa) về Cao Bằng. Từ đó, O.S.S. giúp VM huấn luyện quân sự, sử dụng võ khí, truyền tin... (Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoại, tập 2: 1925-1945, Houston: Nxb. Văn Hóa, tt. 358-359.) 
 
Khi HCM và đảng CS cướp được chính quyền và lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945, thiếu tá OSS là Archimèdes Patti giúp HCM viết bản tuyên ngôn độc lập.(Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California: University of California Press, Berkely, 1980, tr. 223.) Tuy nhiên, sau đó OSS rời Việt Nam do Hoa Kỳ chủ trương không can thiệp vào Đông Dương để cho Pháp tự do hành động. (A. Patti, sđd. tr. 379.) Từ đó giữa cộng sản Việt Nam (CSVN) và Mỹ không còn hợp tác, nhưng cũng không đối đầu trực tiếp với nhau. 
 
Sau thế chiến (1939-1945), chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản (do Mỹ đứng đầu) và CS (do Liên Xô lãnh đạo) bắt đầu năm 1946. Năm 1950, Mỹ thừa nhận chính phủ QGVN và viện trợ giúp Pháp chống CS ở Việt Nam, nhưng Mỹ không gởi quân đánh nhau với quân CSVN. Khi hội nghị Genève sắp kết thúc và các bên sửa soạn ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam ngày 20-7-1954, thì lần đầu tiên, HCM lớn tiếng tuyên bố mục tiêu chiến đấu mới của CSVN trong giai đoạn sắp đến là chống “đế quốc” Mỹ.
 
Báo cáo tại hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương đảng LĐ khóa II ngày 15-7-1954, HCM nói: “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam, Lào. Mũi nhọn của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ. Chính sách của Mỹ là mở rộng và quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương. Chính sách của ta là tranh thủ hòa bình để chống lại chính sách chiến tranh của Mỹ…” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7:1953-1955, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 313-315.) 
 
Một điều khá lạ lùng là từ khi OSS về nước, bang giao với Mỹ bị gián đoạn, HCM hầu như chưa lần nào công kích Mỹ nặng nề. Lúc nầy Mỹ chưa viện trợ trực tiếp cho chính phủ QGVN, kẻ thù của CS mà chỉ giúp đỡ gián tiếp qua tay người Pháp. Nói cách khác, cho đến 1954, giữa VM và Mỹ chưa đối đầu trực tiếp, chưa hận thù sâu sắc, ngoài những kỷ niệm thời 1945. Thế mà đột nhiên sau hội nghị Liễu Châu, HCM xem Mỹ là “kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam, Lào.” Để tìm hiểu vấn đề tại sao HCM lại tuyên bố chống Mỹ sau vụ Liễu Châu, xin trở lại với hoàn cảnh chính trị phức tạp trước khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954.
 
Hội nghị Genève bắt đầu từ ngày 8-5-1954 đến ngày 21-7-1954, chia thành hai giai đoạn: 1) Từ 8-5 đến 20-6-1954. 2) Từ 10-7 đến 21-7-1954. Giữa hai giai đoạn là 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi. 
 
Trong thời gian hội nghị tạm nghỉ, xảy ra ba sự kiện quan trọng ở ba nơi khác nhau trên thế giới: Mendès-France lên làm thủ tướng Pháp ngày 17-6-1954. Ngô Đình Diệm nhận chức thủ tướng QGVN ngày 7-7-1954 (ngày Song thất). Châu Ân Lai (CÂL) và HCM bí mật gặp nhau tại Liễu Châu (Liuzhou), tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), Trung Hoa, từ 3 đến 5-7-1954, bàn về giải pháp kết thúc chiến tranh. Lúc đó, không ai biết về hội nghị nầy.
 
Cũng tại hội nghị Liễu Châu chắc chắn hai bên, CÂL và HCM, duyệt xét lại toàn bộ tình hình thế giới và tình hình Đông Á sau chiến tranh Triều Tiên, mà Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) đang đối đầu với Mỹ.
 
2. Tình hình Đông Á trước hội nghị liễu Châu
 
Tại Trung Hoa, đảng Cộng Sản (CS) do Mao Trạch Đông (MTĐ) lãnh đạo, chiếm được lục địa, và tuyên bố thành lập CHNDTH tức Trung Cộng (TC) ngày 1-10-1949. Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng di tản ra Đài Loan (Taiwan), tiếp tục chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (THDQ). Tuy rất nhỏ so với TC, nhưng nhờ Mỹ hậu thuẫn, THDQ vẫn giữ ghế đại diện Trung Hoa tại Liên Hiệp Quốc (LHQ), và giữ luôn ghế hội viên thường trực, có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ.
 
Năm sau, chiến tranh bùng nổ ngày 25-6-1950 giữa Bắc Triều Tiên (BTT) và Nam Triều Tiên (NTT). Quân cộng sản BTT bất ngờ tiến đánh NTT, vượt qua vĩ tuyến 38, đường phân chia BTT và NTT từ 1945, chiếm thủ đô Hán Thành (Seoul). Theo đề nghị của Hoa Kỳ, ngày 27-6-1950 LHQ yêu cầu các nước giúp NTT. 
 
Ngày 12-9-1950, đại tướng Hoa Kỳ là Douglas Mac Arthur cầm đầu quân đội LHQ, bất thần đổ bộ vào hải cảng Inchon, tây bắc NTT, giáp với BTT. Quân LHQ đẩy lui quân BTT, tái chiếm Hán Thành ngày 19-9, tiếp tục truy đuổi bắc quân CS, vượt vĩ tuyến 38, chiếm thủ đô BTT là Bình Nhưỡng (Pyongyang), tiến đến sông Áp Lục (Yalu River), ở vùng biên giới Mãn Châu, thuộc TC.
 
Ngày 26-11-1950, 250,000 quân TC vượt biên giới, giúp BTT, đẩy lui quân LHQ xuống phía nam, tái chiếm Hán Thành. Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman gởi tướng Matthew Ridgway thay tướng Mac Arthur. Quân LHQ đẩy lui bắc quân khỏi vĩ tuyến 38 vào tháng 1-1951. Cuộc thương thuyết giữa hai bên bắt đầu từ tháng 7-1951, và hai bên ký kết hiệp ước Bàn Môn Điếm (Panmunjom) ngày 27-7-1953, lấy vĩ tuyến 38 chia hai Triều Tiên. Bên nào ở yên bên đó, không xâm phạm lẫn nhau. 
 
Khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ năm 1950, thì Hoa Kỳ phái Đệ thất hạm đội đến bảo vệ Đài Loan và eo biển Đài Loan. Sự hiện diện của hạm đội Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan làm cho TC quan ngại. Trong eo biển Đài Loan, hai quần đảo Kim Môn-Mã Tổ (Kinmen-Mazu), nằm cách hải cảng Hạ Môn (Xiamen), tỉnh Phúc Kiến (Fujian) của lục địa TC khoảng 15 Km, trong khi cách bờ biển hải đảo Đài Loan khoảng 270 Km, nhưng hai quần đảo nầy lại thuộc quyền của THDQ (Đài Loan).
 
Sau hiệp ước Bàn Môn Điếm, chấm dứt chiến tranh Triều Tiên, NTT tức Cộng Hòa Triều Tiên ký với Hoa Kỳ tại thủ đô Washington DC ngày 1-10-1953 Hiệp định Phòng thủ Hỗ tương (Mutual Defence Treaty) có hiệu lực từ ngày 17-11-1954.
 
Bên cạnh NTT là Nhật Bản (NB). Tại hội nghị hòa bình San Francisco (Hoa Kỳ) từ 4 đến 8-9-1951, NB tuyên bố từ bỏ mọi quyền hành trên các hải đảo mà NB đã chiếm trong thế chiến thứ hai (1939-1945). Cùng ngày 8-9-1951, NB và Hoa Kỳ ký Hiệp ước an ninh hỗ tương (Mutual Security Treaty) cho phép quân đội Hoa Kỳ đóng quân trên đất NB. 
 
Ngày 8-3-1954, hai nước Hoa Kỳ và NB ký kết thêm Thỏa ước Phòng thủ chung (Mutual Defence Assistance Agreement), có hiệu lực từ 1-5-1954, cho phép quân đội Hoa Kỳ trú đóng trên đất NB vì mục đích hòa bình và an ninh trong khi khuyến khích NB tăng cường quốc phòng.
 
Các hiệp ước Hoa Kỳ ký với NTT và với NB đều nhắm mục đích giúp bảo vệ an ninh của hai nước nầy, chống lại sự đe dọa từ bên ngoài, thực sự là chống lại sự đe dọa của TC. Hơn nữa, Hoa Kỳ gởi Hạm đội số 7 đến eo biển Đài Loan, chính là để bảo vệ Đài Loan và vùng biển nầy.
 
Những hoạt động trên đây của Hoa Kỳ làm cho TC bận tâm lo lắng vì cảm thấy bị bao vây từ nhiều phía: Ở phía tây, TC giáp với Liên Xô. Từ khi Stalin qua đời ngày 5-3-1953, cuộc bang giao giữa TC với Liên Xô càng ngày càng xấu. Ở tây nam, TC bị Ấn Độ chận đứng. Ở phía đông là Thái Bình Dương, TC lại bị các nước NTT, NB, THDQ bao vây. Các nước nầy được Mỹ bảo vệ. Trên Thái Bình Dương thì Đệ thất hạm đội Mỹ chập chờn canh chừng. Vì vậy, TC rất căm thù Hoa Kỳ. 
 
Tại Hoa Kỳ, lúc đó phong trào chống cộng rất mạnh. Vào đầu năm 1950, thượng nghị sĩ tiểu bang Wisconsin là Joseph Raymond McCarthy đưa ra chủ trương “tố cộng” mạnh mẽ khắp nước Mỹ. Tinh thần chống cộng của người Mỹ lúc đó mạnh đến nỗi đáng chú ý là khi khai mạc hội nghị Genève về Việt Nam vào ngày 8-5-1954, trưởng phái đoàn Hoa Kỳ là ngoại trưởng John Foster Dulles không bắt tay trưởng phái đoàn TC là thủ tướng kiêm ngoại trưởng CÂL. (Henry Kissinger, White House Years, Toronto: Little, Brown and Company, 1979, tr. 1054.) Có lẽ CÂL khó quên kỷ niệm không vui nầy.
 
Tại hội nghị Liễu Châu từ 3 đến 5-7-1954, chắc chắn CÂL đã trình bày toàn cảnh tình hình Đông Á trên đây với HCM. Vừa thù nước, vừa giận riêng, phải chăng CÂL đã chỉ thị cho HCM, nên khi về nước, HCM chĩa mũi dùi ngay vào Hoa Kỳ tại Hội nghị lần thứ 6 Ban CHTƯĐ/LĐ khóa II ngày 15-7-1954.
 
Ở đây, xin ghi nhận thêm giao tình giữa HCM và các lãnh tụ TC: 
 
Thứ nhứt, khi Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS) gởi điệp viên Lý Thụy (HCM) đến Quảng Châu (Trung Hoa) hoạt động năm 1924, thì Lý Thụy mở những khóa huấn luyện cán bộ và mời các lãnh tụ CSTH đến giảng dạy như Lưu Thiếu Kỳ, CÂL, Lý Phúc Xuân, Bành Bài…(Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 10.). 
 
Thứ hai, sau khi bị giữ lại ở Liên Xô từ 1934 đến 1938 để điều tra, Nguyễn Ái Quốc (HCM) được QTCS gởi qua Trung Hoa vào 1938, đến căn cứ phía bắc TC là Diên An, học tập và hoạt động tình báo. Lúc đó, Quốc với tên mới là Hồ Quang, mang quân hàm thiếu tá trong quân đoàn Bát lộ quân của TC, để dễ di chuyển và hoạt động. (Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh, the Missing Years, Diên Vỹ và Hoài An dịch, Diễn đàn www.x-cafevn.org tt. 190-191.) 
 
Sau đó, Hồ Quang đến Quế Lâm (Quảng Tây) hoạt động. Khoảng đầu thu 1940, Hồ Quang (HCM) cử người đến Diên An, ký mật ước với TC, theo đó đại diện đảng TC tại cục Tình báo Á châu của ĐTQTCS, phụ trách lãnh đạo công tác của CSVN. Cộng Sản Việt Nam sẽ cử cán bộ đến Diên An thụ huấn, và CSTH sẽ trợ cấp cho CSVN 50,000 quan Pháp mỗi tháng để trang trải chi phí sinh hoạt tại Trung Hoa. (Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, Nxb. Truyện Ký Văn Học, Đài Bắc, 1972, bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, Nxb. Văn Nghệ, California, 1999, tt. 167-168.) 
 
Thứ ba, trong chiến tranh với Pháp từ năm 1946, CSVN thua chạy dài. Sau khi CHNDTH được thành lập năm 1949, HCM qua Bắc Kinh, rồi qua Moscow cầu viện năm 1950. Mao Trạch Đông cũng có mặt tại Moscow. Stalin uỷ nhiệm cho MTĐ giúp cho CSVN. 
 
Cùng đi trên chuyến xe lửa từ Moscow đưa MTĐ về Bắc Kinh, HCM đến xin MTĐ giúp đỡ. (Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, trong sách Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, do Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Montreal: Tạp chí Truyền Thông, số 32 & 33, 2009, tr. 47.) Từ đó, TC viện trợ tối đa cho CSVN. Nhờ thế, CSVN phản công và thành công năm 1954.
 
Chỉ cần nhắc lại những chuyện trên đây đủ thấy rõ HCM và đảng CSVN quá nặng nợ với TC. Khi TC viện trợ rộng rãi cho CSVN, HCM và CSVN chẳng có gì để trả nợ, nên chỉ còn cách là phải đáp lại những đòi hỏi, yêu sách hay mệnh lệnh của TC để trả ơn.
 
3. Chiêu bài “chống mỹ cứu nước”
 
Sau hội nghị Liễu Châu, trong báo cáo của HCM tại hội nghị Ban CHTƯĐ/LĐ ngày 15-7-1954, HCM chỉ nhắc sơ là có gặp và trao đổi với thủ tướng CÂL. Về sau, khi ấn hành lại bản báo cáo nầy trong Hồ Chí Minh toàn tập tập 7, Nxb Chính Trị Quốc Gia chỉ chú thích sơ lược cuộc gặp gỡ ở cuối trang 315.
 
Về phía CÂL, TC cũng không loan báo tin tức hội nghị nầy, mãi cho đến năm 2005, Trung Cộng đảng sử xuất bản xã phát hành sách Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève], chuyện Liễu Châu mới được tiết lộ công khai. Tại Liễu Châu, CÂL khuyên HCM nên chấp nhận giải pháp chia hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17 để Pháp ra đi và Mỹ không can thiệp. Ngược lại HCM bàn với CÂL là sẽ chôn giấu võ khí, cài cán bộ, đảng viên ở lại NVN, trường kỳ mai phục để đợi thời cơ tái tục chiến tranh. 
 
Vì BVN trường kỳ mai phục, chuẩn bị sẵn sàng hành động ở NVN, nên ngay từ năm 1955, BVN đề nghị với NVN họp hội nghị để tổ chức tổng tuyển cử, thống nhứt đất nước, mà BVN cho rằng do hiệp định Genève quy định, nhưng bị NVN từ chối, vì NVN cho rằng QGVN đã không ký vào hiệp định Genève. Bắc Việt Nam còn đề nghị nhiều lần sau đó, cũng đều bị NVN từ chối.
 
Thật ra, hiệp định Genève không liên hệ đến việc tổng tuyển cử, không có điều khoản nào đề cập đến việc tổng tuyển cử, mà chỉ là hiệp định đình chỉ chiến sự, chấm dứt chiến tranh. Sau khi hiệp định Genève được ký kết vào tối 20-7-1954, các phái đoàn họp tiếp vào ngày 21-7-1954, đưa ra bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". 
 
Bản tuyên bố (déclaration) gồm 13 điều; trong đó quan trọng nhứt là điều 7, ghi rằng: "Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53.) (Vào google đọc bản chữ Pháp: Déclaration finale de la conférence de Genève en 1954.) 
 
Khi được hỏi ý kiến, các phái đoàn tham dự đều trả lời miệng, chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy. Bản tuyên bố không có chữ ký không phải là một hiệp ước, không có tính cách cưỡng hành, mà chỉ có tính cách khuyến cáo hay đề nghị mà thôi. Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không ký vào bản "Tuyên bố cuối cùng…" ngày 21-7-1954. Phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ chỉ đưa ra tuyên bố riêng để minh định lập trường của chính phủ mình. 
 
Nói cách khác, cả hai bên Bắc và Nam Việt Nam đều không bị bắt buộc phải thi hành lời khuyến cáo hay đề nghị trong bản tuyên bố không chữ ký. Vì vậy, VNCH có quyền từ chối đề nghị tổng tuyển cử mà không thể kết luận rằng VNCH không thi hành hay vi phạm hiệp định Genève 20-7-1954. 
 
Khi NVN từ chối đề nghị tổng tuyển cử do BVN đưa ra, thì BVN hô hoán lên rằng NVN vi phạm hiệp định Genève, trong khi đó BVN đã vi phạm trước, vì BVN đã chôn giấu võ khí, cài cán bộ ở lại NVN từ 1954. Bắc Việt Nam tổ chức Đại hội đảng LĐ lần thứ III tại Hà Nội từ 5 đến 10-9-1960, đưa ra hai mục tiêu là “xây dựng BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa và giải phóng NVN bằng võ lực”. 
 
Khai mạc Đại hội III đảng LĐ tại Hà Nội ngày 5-9-1960, HCM nhấn mạnh: "Ngày nào chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, chưa giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ-Diệm, thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn ngon, ngủ yên. Bởi vậy không thể nào tách rời cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình, thống nhất nước nhà với cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ.”( Hồ Chí Minh toàn tập tập 10 1960-1962, Hà Nội: Nxb Chính Trị Quốc Gia, xuất bản lần thứ hai, 2000, tr. 200.)
 
Trong phần kết luận bài phát biểu nầy, HCM tiếp: "Hiện nay, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ…” (Hố Chí Minh, sđd. tr.319.)
 
Đáng chú ý, suốt bản báo cáo, HCM luôn nhấn mạnh đến chuyện chống Mỹ, và kết luận “mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ”.
 
Kết luận
 
Vào cuối thế chiến thứ hai, HCM và đảng CSVN hợp tác với OSS là một tổ chức tình báo Mỹ, nhờ OSS huấn luyện và trang bị những phương tiện thông tin cần thiết. Sau đó, tuy chưa có gì va chạm, nhưng vì Mỹ không muốn làm mất lòng Pháp ở Đông Dương, nên Mỹ rút các toán OSS ra khỏi Việt Nam. Trong cuộc chiến 1946-1954, HCM hầu như không đả động gì đến việc chống Mỹ.
 
Bất ngờ, sau hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây) với CÂL vào đầu tháng 7-1954, HCM đưa ra chủ trương chống Mỹ mạnh mẽ. Nói trắng ra, phải chăng chính HCM vâng lệnh CÂL tại hội nghị nầy, nên khi về nước, HCM triệu tập liền hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương đảng LĐ khóa II ngày 15-7-1954, để phổ biến ngay chủ trương chống “đế quốc” Mỹ? 
 
Sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng LĐ phải tốn một thời gian ổn định BVN, quốc doanh toàn bộ công thương nghiệp thành phố, cải cách ruộng đất để làm chủ nông thôn, triệt tiêu tất cả những phản kháng của giới trí thức và văn nghệ sĩ. Sau những chiến dịch nầy, đảng LĐ tức đảng CSĐD nắm vững BVN trong khuôn khổ độc tài toàn trị CS, liền nghĩ đến chuyện NVN.
 
Đảng LĐ tổ chức Đại hội III từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960 để phát động chiến tranh tấn công NVN, đưa ra hai chiêu bài chiến lược song song là “giải phóng miền Nam” và “chống Mỹ cứu nước”. 
 
Thực ra, ngay từ 1954, trước khi ký kết hiệp định Genève, tại Liễu Châu, CSVN đã cho thấy tham vọng tấn công NVN nhằm thống trị toàn bộ đất nước chứ không phải “giải phóng miền Nam”.
 
Còn HCM chủ trương "mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ” là HCM làm theo lời MTĐ đã từng nói là nếu CSVN “giải tỏa được mối đe dọa của bọn xâm lược, đó là Việt Nam giúp Trung Quốc.” (La Quý Ba trích dẫn, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, trong Hồi ký của những người trong cuộc, sđd. tr. 27). 
 
Như thế, CVSN chống Mỹ không phải để cứu nước Việt, mà để cứu Tàu, theo yêu cầu của Tàu, vì lợi ích của Tàu. Chính vì vậy mà Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng LĐ từ năm 1960, đã nhận: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc.” Lời của Lê Duẩn là niềm hãnh diện của CSVN, được viết thành biểu ngữ khá lớn treo ngay trước nhà thờ Lê Duẩn ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
 
Niềm hãnh diện nầy cho thấy sự nghiệp “giải phóng miền Nam”, “chống Mỹ cứu nước” của HCM và CSVN nằm trong kế hoạch “tự Hán hóa” (autochinization / autochinalization) của CSVN, nghĩa là không phải Tàu khựa áp đặt nền đô hộ tại Việt Nam, mà CSVN tự nguyện Hán hóa Việt Nam dưới sự đô hộ của Tàu khựa. 
 
Cộng sản Việt Nam phản quốc đến thế là cùng. Tồi tệ nhứt trong lịch sử nước nhà! (Trích Lịch sử sẽ phán xét, xuất bản tháng 6-2016.)
 
(Toronto, 28-2-2016)
 
Trần Gia Phụng