Friday, November 16, 2007

Một số bí quyết khi truy cập, gửi, nhận thông tin trên internet

Một số bí quyết khi truy cập, gửi, nhận thông tin trên internet
2007.11.15
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Làm thế nào để truy cập, gửi, nhận, hay phổ biến thông tin trên mạng internet một cách an toàn? Một câu hỏi tuy đơn giản đơn giản nhưng được người dân ở các nước siết chặt quản lý internet như Việt Nam hết sức quan tâm, nhất là giới trẻ khao khát tự do thông tin, tự do tiếp cận với thế giới mở bên ngoài.


TOR, công cụ giúp bảo mật thông tin do các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ phát triển.
Để giúp qúy vị và các bạn tìm lời giải đáp, Trà Mi có cuộc trao đổi với ông Ethan Zuckerman, chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu về internet và xã hội Berkman, thuộc trừơng luật Harvard, tại Hoa Kỳ.
Ông Zuckerman là ngừơi góp mặt trong rất nhiều công trình nghiên cứu nhằm phát triển tính hữu dụng của công nghệ thông tin phục vụ xã hội dân sự và quyền tự do thông tin của con người. Ông đã được trao rất nhiều giải thưởng và danh hiệu cao quý về những cống hiến cho nhân loại trong lĩnh vực này. Trong số này có danh hiệu “Nhà lãnh đạo tương lai của toàn cầu” vào năm 2003 và “Nhà lãnh đạo trẻ của toàn cầu” vào năm 2005.
Gửi, nhận email ở Việt Nam
Trà Mi: Các hoạt động trao đổi thông tin trên mạng có thể chia thành hai dạng chính như trao đổi, phổ biến thông tin, phát biểu ý kiến qua email hay blog, hoặc tìm kiếm, cập nhật thông tin bên ngoài bằng các công cụ vựơt tường lửa. Trước hết, nói về phương tiện phổ biến nhất hiện nay là email, xin được hỏi ông làm cách nào để sử dụng email một cách an toàn nhất?
Ông Ethan Zuckerman: Tại một quốc gia như Việt Nam, nơi internet bị nhà nước quản lý chặt chẽ, thì các cư dân mạng, đặc biệt là những ai muốn tự do truy cập thông tin hay bày tỏ quan điểm trên mạng, phải đối diện với rất nhiều rủi ro và đàn áp từ phía chính quyền.
Vì vậy, đăng ký sử dụng các tài khoản email từ các nhà cung cấp dịch vụ email miễn phí như yahoo hay hotmail chẳng hạn quả thật là không an toàn. Các nhà cung cấp này có thể giao nộp thông tin cá nhân và nội dung trao đổi thư từ của bạn cho an ninh mạng, nếu đựơc yêu cầu.
Hiện nay có những nhà cung cấp email cung cấp công cụ hỗ trợ cho các dạng email mã hoá. Một ví dụ điển hình là Google, tức dịch vụ gmail. Nếu bạn vào đường link URL tên là:
https://mail.google.com/mail để đăng ký 1 tài khoản email với Google thì bạn sẽ có một địa chỉ email mà sử dụng nó thì nội dung email của bạn khi gửi đi sẽ được mã hoá.
Cho nên, trên đường thư tới tay ngừơi nhận, an ninh theo dõi trên mạng không thể biết được nội dung của lá thư. Thế nhưng, điều này không có nghĩa đây là cách an toàn tuyệt đối. Vì thư của bạn được tải về trạm chuyển thư là Google trước khi được gửi tới người nhận, thì cũng có khả năng là khi được chính quyền Việt Nam yêu cầu, Google có thể sẽ hợp tác bằng cách cung cấp cả nội dung email và thông tin của người gửi.
An ninh trong thế giới blog
Trà Mi: Còn về việc sử dụng nhật ký điện tử Blog để trao đổi, phổ biến thông tin hay bày tỏ quan điểm. Ông có lời khuyên gì giúp những bloggers tại Việt Nam tự bảo vệ an toàn cá nhân?
Ông Ethan Zuckerman: Tôi có phổ biến những chỉ dẫn cụ thể về phương cách sử dụng Blog an toàn trên mạng. Bài viết nhan đề: “Blog ẩn danh với chương trình Wordpress và TOR” đựơc lưu trữ trong phần Tools and Guides trên trang
www.advocacy.globalvoicesonline.org. Qua đó, tôi đề nghị người dân tại những nước kiểm duyệt internet:
Trước hết, bạn nên tải phần mềm TOR từ trang web:
www.tor.eff.org vào máy tính hoặc vào đĩa, hay USB của mình, làm theo hướng dẫn từng bước trong đó. TOR là một chương trình có chức năng xoá dấu vết, dấu địa chỉ xuất xứ của người truy cập khi họ gửi, nhận, hay đọc thông tin trên mạng internet bằng cách mã hoá nhiều lần những thông tin trao đổi trên net của người đó và chuyển qua nhiều máy chủ trung gian khác nhau trước khi gửi tới người nhận.
Sau khi đã có công cụ vựơt tường lửa TOR trong tay, nghĩa là có thể yên tâm rằng mọi hoạt động của bạn trên mạng được bảo mật, bạn nên đăng ký một địa chỉ email với Gmail.
Kế đến, bạn cần tạo ra một tài khoản với
www.wordpress.org, là một phần mềm trọn gói chỉ dẫn, hỗ trợ tạo blog rất phổ biến, tương tự như yahoo 360 độ.
Nhớ rằng khi tạo địa chỉ email với Gmail và mở blog với Wordpress, bạn đều phải sử dụng TOR để bảo mật an toàn. Có như vậy, cả Gmail và Wordpress đều không biết đựơc những thông tin cá nhân của bạn. Họ chỉ thấy được là bạn sử dụng TOR để đến với họ, nhưng họ không biết đựơc vị trí của bạn đang ở đâu, từ quốc gia nào.
Cho nên, cho dù có đựơc chính quyền Việt Nam yêu cầu đi chăng nữa, thì Gmail và Wordpress cũng không hề có được thông tin cá nhân của bạn để giao nộp hay tiết lộ.
Làm những việc này, bạn sẽ có được một địa chỉ email an toàn để mở blog và trang blog cá nhân để giao tiếp với mọi người trên khắp thế giới. Hơn nữa, mọi hoạt động trên blog bạn đều thực hiện với công cụ TOR thì công an mạng khó mà truy tìm được ra bạn là ai.
Đương nhiên cách này không phải là an toàn tuyệt đối, nhưng nó có tính bảo mật cao hơn và cũng dễ sử dụng đối với mọi người.
Những lưu ý khi vượt tường lửa
Trà Mi: Một hoạt động khá phổ biến trên net là truy cập và tiếp cận thông tin toàn cầu. Việc này vốn bị cản trở rất nhiều ở các chế độ độc tài bằng những bức từơng lửa, và công cụ ‘leo rào’ phổ biến hiện nay là dùng proxy. Theo ông, để vựơt tường lửa an toàn, cần lưu ý những điều gì?
Ông Ethan Zuckerman: Chúng tôi không đề nghị sử dụng các proxy công cộng vì bạn không thể biết đựơc người đang vận hành các proxy công cộng đó là ai.
Chúng tôi khuyên bạn nên dùng TOR hay JAP, tức những proxy ẩn danh có hỗ trợ Java.
Những cư dân mạng ở Việt Nam nếu có bà con, bạn bè định cư ở nước ngoài thì nên sử dụng Psiphon. Ngừơi thân của bạn ở hải ngoại chỉ cần cài đặt chương trình Psiphon vào máy và đưa cho bạn những thông tin kết nối như địa chỉ IP của máy chủ, tên đăng ký sử dụng, và mật khẩu.
Một ngừơi ở Việt Nam truy cập internet bằng Psiphon thì cũng giống như là ngừơi ấy đang dùng máy tính của người thân ở nước ngoài để vào mạng vậy. Bạn sẽ có thể tha hồ truy cập vào bất cứ trang web nào mà bạn thích, mà không để lại dấu vết gì có thể bị truy ra cả. Bạn có thể tải Psiphon về từ địa chỉ:
www.psiphon.civisec.org. Đó là những cách vượt tường lửa an toàn nhất.
Tóm lại, bạn cần nhớ rằng khi đăng tải ý kíên cá nhân lên net hay lên blog, cần sử dụng các công cụ như TOR, Psiphon kèm theo để ‘ngụy trang’ và tăng cường tính bảo mật.
Một vấn đề khác đáng lưu ý là tuyệt đối đừng bao giờ tiết lộ bất cứ thông tin nào liên quan đến cá nhân của bạn trên mạng hay trên blog.
Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn ông đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này

Wednesday, November 14, 2007

Tiến trình dân chủ hóa giai đoạn vừa qua

Tiến trình dân chủ hóa giai đoạn vừa qua

Hồng Lĩnh


Hiện nay nhà cầm quyền Việt Nam đang rơi vào thế phòng thủ bị động tại một địa bàn độc nhất là quốc nội. Trong thế “răng cắn môi” của đàn anh Trung Quốc, cộng sản Việt Nam chỉ còn tìm an ủi nơi Bắc Hàn hay Cuba. Trong khi đó, lực lượng dân chủ Việt Nam hoạt động trên hai địa bàn quốc nội và hải ngoại rộng rãi và được lực lượng dân chủ thế giới yểm trợ.

Điều này cho thấy sự không cân bằng địa bàn cũng như cái thế thắng bại đã rõ.

Cuộc đấu tranh cho tự do, nhân quyền và dân chủ hóa Việt Nam tại quốc nội đều khởi phát từ các điều kiện hiện thực của xã hội Việt Nam. Bắt đầu từ việc bất đồng chính kiến xuất hiện vào năm 1991 qua vụ Dương Thu Hương cho đến nay đã có nhiều gió nhỏ tạo thành cơn bão.

Các tôn giáo:
– Đòi tự do tôn giáo, quyền ra báo.
– Đòi trả lại tài sản và đất đai tước đoạt
– Đi với dân nghèo và tổ chức giáo dục độc lập với nhà nước

Những người đối kháng, vận động dân chủ:
– Đòi nhân quyền, dân chủ và tự do
– Tuổi trẻ và trí thức thành lập các phong trào hay chính đảng, cao điểm năm 2006.
– Giao tiếp với người Việt hải ngoại.
– Tạo ra sự quan tâm và thức tỉnh lương tâm của các lực lượng dân chủ thế giới.

Thành phần đòi cải cách và đổi mới từ trong đảng Cộng sản:
– Đòi cải tổ chính ngay trong trung ương
– Đòi đổi mới qua phát triển và dân chủ hóa
– Đòi bãi bỏ chính sách quốc giáo Marx–Lenin

Các doanh nghiệp tư nhân:
– Phát triển kinh tế thị trường tự do và hội nhập quốc tế thương mãi
– Không chấp nhận định hướng Xã hội chủ nghĩa
– Quay lưng với tư tưởng Hồ Chí Minh và đẩy quốc doanh vào phá sản

Lực lượng công nhân:
– Đình công và biểu tình phản đối bóc lột của tư bản đỏ

Thành phần dân oan khiếu kiện:
– Khiếu kiện liên tục lên án sự cướp đoạt đất đai của chế độ

Phản ứng của nhà cầm quyền.
Vì cùng lúc phải đối phó nhiều thành phần cùng chống đối, nhà cầm quyền Hà Nội phải tìm cách đàn áp dân chủ bằng vũ lực và bấp chấp dư luận. Bên cạnh đó, họ còn tung ra một số chiêu bài đánh lạc hướng, tung hỏa mù.

Đàn áp bằng vũ lực hay áp lực tâm lý:
– Ra các đạo luật như CP 297 để giới hạn tự do tôn giáo, hay đạo luật CP 88 để dễ dàng cầm tù những người hoạt động dân chủ.
– Lập tôn giáo quốc doanh.
– Quản thúc tại gia các lãnh đạo tôn giáo và những người đấu tranh.
– Bò tù và áp đảo tinh thần, kinh tế người bất đồng chính kiến và tạo áp lực trên các thân nhân họ.
– Khai trừ khỏi đảng và cầm tù các đảng viên phản tỉnh hay đã có một số kiến nghị thuộc loại “chướng tai gai mắt” với đảng cộng sản.
– Các nghị định cấm báo chí tư nhân.

Đánh lạc hướng dư luận thông qua các cuộc tranh luận:
– Phát triển kinh tế sẽ dẫn tới phát triển chính trị
Đảng sẽ mang dân chủ cho nhân dân qua sự công nhận vai trò lãnh đạo của đàng (một loại tiện tiếm do cộng sản Việt Nam hô hào).
– Đa đảng sẽ gây ra hỗn loạn
– Dân chủ bắt đầu là phải nâng cao dân trí và không nói gì tới ý thức.

Một số thành quả.
Qua đợt đàn áp tàn bạo nhất từ 20 năm qua vào đầu năm 2007 và kéo dài tới hôm nay, phong trào dân chủ quốc nội dường như có vẻ lắng dịu, không như vào cuối năm 2006. Nhiều nhân vật tiên phong tại quốc nội đang bị giam cầm hay bị bao vây quản thúc tại gia. Tuy nhiên, bên cạnh đó biểu tình của thành phần dân oan và đình công của lực lượng công nhân lại nổi lên.

Trước tình hình này, một số sự kiện hiển nhiên và các ý kiến của những thành phần đấu tranh trong nước được ghi nhận như sau:

Những điều gây bất lợi cho cộng sản Việt Nam
– Linh mục Nguyễn Văn Lý và Hòa thượng Thích Quảng Độ đã trở thành hai gương mặt tiêu biểu và huyền thoại của cuộc đấu tranh tại quốc nội.
– Một số người vận động dân chủ như Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình… đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước. Tên tuổi của họ đã được quốc tế quan tâm qua việc yêu cầu chính quyền Việt Nam phải trả tự do cho họ và lên tiếng cảnh cáo về việc vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam.
– Cộng sản Việt Nam ở ngã ba đường (1) và tung bong bóng dự định đổi tên đảng (2).

Một số ý kiến của những người bất đồng chính kiến có tên tuổi trong và ngoài nước:
– Ông Lê Hồng Hà: “Qua 30 năm thì dân thắng đảng trên mặt kinh tế và tư tưởng, dân chưa thắng về chính trị vì Đàng Cộng sản còn nắm đuợc công an và bộ đội”(3).
– Ông Nguyễn Gia Kiểng: “phấn khởi nhường chỗ cho thất vọng. Dưới phần nổi không có phần chìm, đằng sau tiếng vang không có thực lực” (4).
– Ông Nguyễn Minh Cần, cựu đảng viên: “Đột Biến Đánh Sập Chế Độ” (5).
– Nhà văn Hoàng Tiến: “Nhận định của ông Nguyễn Gia Kiểng có nhiều cái sai và nguy hiểm” (6)
– Ông Nguyễn Thanh Giang: “Ý thức dân chủ đã nằm trong quảng đại quần chúng, trong công nhân, nông dân, kể cà các ủy viên (trung ương) đảng cộng sản, ủy viên Bộ chính trị. Như vậy tức là tự do ngôn luận đã lấn tới, uy hiếp ông ấy khiến ông ấy phải hô khẩu hiệu” (7)
– Nhà báo Ngô Nhân Dụng: “Cộng Sản thua, tôn giáo thắng” (8).
– Ông Phạm Hùng Vỹ, 24 tuổi, hiện đang sống trong nước: “An ninh có nhiều trò, thế nhưng tôi khẳng định việc họ đàn áp không thể ngăn cản phong trào dân chủ từng bước vì đó là thế tất yếu, đó là mong muốn của người dân, đó là thực thể cuộc sống thúc đẩy người dân phải có dân chủ” (9)
– Ông Đỗ Nam Hải: “Đường lối đấu tranh đúng đắn đã được xác định: đấu tranh dẹp độc đảng để tiến tới đa nguyên. Chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa, cái mới, cái tiến bộ sẽ thắng cái cũ, lạc hậu, phản động. Cuộc đấu tranh giành lại tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam nhất định sẽ thắng lợi trọn vẹn” (10)

Quan sát và ý kiến.

– Nhân quyền, dân chủ và tự do là các giá trị mà con người luôn phải chiến đấu để có và phải tốn bao công sức để giữ gìn.

– Xã hội Viêt Nam hiện tại có quá nhiều điều bất hợp lý từ cấu trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng. Nhu cầu thay đổi chế độc độc đảng, thể chế chính trị là chuyện đương nhiên. Cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống lại đảng cộng sản Việt Nam đã và đang xảy ra.
– Hiện nay đảng cộng sản Việt Nam có ba vũ khí lợi hại: địa bàn, hệ thống cai trị rất tổ chức và lực lượng quân đội, công an đứng ngoài luật lệ và tự do dùng bạo lực. Sự sợ hãi bao trùm toàn dân tộc, sự nghi kỵ giữa người và người làm tê liệt ý chí cùng nhau vùng lên. Tuy nhiên các thế mạnh này đã không còn có quyền uy tuyệt đối như trước mà đang bị nhân dân làm suy yếu dần dần.
– Là một trong bốn nước cộng sản còn lại trên thế giới, nhà cầm quyền Việt Nam hiện đang đi ngược lại các giá trị về nhân quyền, dân chủ và tự do của nhân loại và đi ngược lại nguyện vọng của toàn dân. Tội ác của chủ nghĩa cộng sản bị lên án trên toàn thế giới và chủ nghĩa này đang “giãy chết”.
– Cộng sản Việt Nam đang ở trong thế lưỡng đầu thọ địch. Tuy đang yếu sức, nhưng sự “giãy chết” này còn có khả năng gây ra tổn thương cho lực lượng dân chủ của dân tộc Việt Nam, đó cũng là cái giá phải trả cho các thành quả đã đạt được.
– Một kết quả có tính cách quyết định: dân ta nay bắt đầu hết sợ cộng sản Việt Nam và bất chấp tù đày.
– Chế độ độc tài cộng sản phải được chấm dứt tại Việt Nam, sớm hay muộn chỉ còn là yếu tố thời gian mà thôi.

(1) Đảng Cộng sản ở ngã ba đường, Trần Quốc Hiền, Việt Báo, 20/10/2007, trang 1–3
(2) Bao giờ Đảng CSVN đổi tên, Lê Biên, Viet Báo, 24/10/2007, trang 1–2
(3) Đấu tranh cho phát triển và dân chủ hóa, Lê Hồng Hà, Diễn Đàn Forum trang 3
(4) Thời điểm của một xét lại bắt buộc, Nguyễn Gia Kiểng, Thông Luận 13/06/2007, trang 1–7.
(5) Đột biến đánh sập chế độ, Nguyễn Minh Cần, Việt Báo, 26/10/2007, trang 1–7.
(6) Nhận định của ông Nguyễn Gia Kiểng có nhiều cái sai và nguy hiểm, nhà văn Hoàng Tiến, Thongtin. Brinkster. Net, 27–7–2007, trang 1–6.
(7) Dân chủ Việt Nam sẽ khác Miến Điện, Nguyễn Thanh Giang, BBC 28/09/2007, trang 1–3.
(8) Cộng sản thua, tôn giáo thắng, Ngô Nhân Dụng, thongtinberlin.net, trang 1–4.
(9) Các nhà tranh đấu dân chủ tại Việt Nam sẽ chùn bước?, Gia Minh, RFA, 23/09/2006, trang 1–3.
(10) Lượng định về phong trào đấu tranh giành lại tự do dân chủ cho Việt Nam trong thời gian qua, Đỗ Nam Hải, Việt Báo Tự Do, 23/10/2007, trang 1–3.

Saturday, October 27, 2007

Biến chất các tôn giáo:chiến thuật mới của CS

Biến chất các tôn giáo:chiến thuật mới của CS sau khi cướp được Miền Nam
Nguyễn Chính Kết

Nhu cầu thay đổi chiến thuật đối với tôn giáo
Tôn giáo – đúng nghĩa hay đúng với bản chất của nó – có đặc tính căn bản này: khuyên và giúp con người không chỉ tránh ác hành thiện mà còn chống ác phù thiện nữa (xin xem ghi chú *a ở cuối bài). Tôn giáo nào đánh mất đặc tính cốt yếu này, tôn giáo đó đã bị biến chất hay tha hóa, không còn là tôn giáo đúng với bản chất nguyên thủy của nó nữa. Chính đặc tính căn bản này của tôn giáo đã khiến thế giới vẫn còn khá tốt lành như hiện nay. Tương tự như vị mặn của muối ướp đồ ăn khỏi hư thối; mất vị mặn đi, muối không còn là muối và trở nên vô dụng.
Chính vì một trong những đặc tính căn bản của tôn giáo là luôn luôn chống ác như một đòi buộc lương tâm, mà tôn giáo đã bị các chế độ cộng sản trước đây coi là kẻ thù không đội trời chung và quyết tâm tiêu diệt. Vì mục đích của cộng sản là: một khi đã cướp được quyền cai trị đất nước, họ liền biến quyền ấy thành độc quyền và quyết tâm bảo vệ độc quyền ấy vô thời hạn và với bất cứ giá nào. Mà cộng sản chủ trương “mục đích biện minh cho phương tiện”, nên để đạt mục đích ấy, họ sẵn sàng dùng bất kỳ phương tiện nào, dù xấu xa độc ác nhất. Vì thế, họ đã gây nên biết bao tội ác, bất công tày trời, khiến cho tôn giáo nào còn giữ nguyên bản chất nguyên thủy đều phải chống lại những điều ác ấy.
Nhưng trên thế giới, cộng sản ngày càng suy yếu và đã sụp đổ hầu hết, hiện nay chỉ còn 4 nước cộng sản, trong đó có Việt Nam, vẫn quyết tâm duy trì chủ nghĩa phi nhân này. Trước đây, tất cả các nước cộng sản cố tâm tiêu diệt tôn giáo đều thất bại, vì càng chủ trương tiêu diệt tôn giáo, tôn giáo càng thủ thế chống lại. Đức tin của các tín đồ một khi bị thử thách càng trở nên kiên vững, càng kiên quyết chống lại sự ác do cộng sản gây ra. Điều này chỉ gây bất lợi cho cộng sản, nhất là khi họ đang bị thế giới lên án mạnh mẽ về sự chà đạp nhân quyền. Rút kinh nghiệm, Cộng sản Việt Nam đã thay đổi chiến thuật đối với các tôn giáo kể từ khi cướp được Miền Nam năm 1975.
Biến tôn giáo thành tổ chức ngoại vi của chế độ
Thay vì tiêu diệt tôn giáo như một kẻ thù, Cộng Sản Việt Nam chủ trương biến tôn giáo thành bạn, đồng minh, hay hơn nữa, thành công cụ phục vụ mình. Cho đến nay, sau 30 năm chiếm Miền Nam, dường như họ đã thực hiện chiến thuật này tương đối thành công! Đó là chiến thuật “win win” (cả hai cùng có lợi). Theo đó, cộng sản và tôn giáo có thể chung sống hòa bình, cùng nhau tồn tại, bằng cách nương nhau, bảo vệ quyền lợi cho nhau, thay vì chống đối, tiêu diệt nhau. Như thế khôn ngoan và lợi hơn rất nhiều!
Để biến tôn giáo thành bạn, thành tổ chức ngoại vi của mình, chế độ hoặc mặc nhiên hoặc minh nhiên đề nghị các tôn giáo chấp nhận “hợp đồng” sau:
a) Phía tôn giáo
– im lặng, không đả động hay phản đối sự ác, bất công do chế độ gây ra, dù sự ác có đến mức rõ ràng hay đã tràn lan khắp nơi trong xã hội;
– chủ yếu phát triển những sinh hoạt tôn giáo nặng hình thức bên ngoài để quốc tế dễ thấy được chính sách “tự do tôn giáo” của nhà nước, như thực hiện các lễ nghi, rước sách, đình đám, xây cất những nơi thờ tự nguy nga, ra nước ngoài tu học, xuất ngoại để lo đời sống tâm linh cho người Việt hải ngoại…;
– coi nhẹ những sinh hoạt nặng phần nội tâm như dạy giáo lý, phát triển hội đoàn, nhất là tránh rao giảng về lương tâm, ý thức trách nhiệm đối với xã hội trong việc chống ác, chống bất công do chế độ gây ra, tránh thể hiện tinh thần liên đới với các nhà tranh đấu tự do dân chủ (như cầu nguyện cho họ, ủng hộ họ…);
– im lặng chấp nhận cho chế độ xen vào việc tổ chức nội bộ, bổ nhiệm nhân sự; thậm chí cho người của chế độ tham dự việc đào tạo các chức sắc tương lai (như vào tu viện dạy triết Mác-Lê và lý thuyết cộng sản)…;
– về xã hội, bằng lòng chỉ bao nhận một số trách nhiệm mà đúng ra chế độ phải cáng đáng như: săn sóc các bệnh nhân siđa, nghiện hút, săn sóc người già…(*b) chứ không đòi hỏi quyền thực hiện những trách nhiệm khác như giáo dục giới trẻ, làm truyền thông, truyền hình, phát thanh, ra báo…;
– sẵn sàng cộng tác với chế độ trong việc tuyên truyền một số chính sách (hạn chế sinh sản, hô hào tín đồ đi bầu cho đông, đi nghĩa vụ, làm thủy lợi…); báo cáo những gì mình thấy hay biết liên quan đến chế độ (như phản ứng của các đồng sự, các tín đồ mình chăm sóc, của dân chúng trong vùng đối với chế độ…) để chế độ tùy nghi xử lý; cho chế độ mượn các cơ sở tôn giáo cách ngắn hạn để làm phòng họp, phòng bỏ phiếu; hoặc dài hạn để làm trường học, bệnh viện…; hoặc vĩnh viễn cống hiến cho chế độ tùy nghi sử dụng…
– chấp nhận cho các chức sắc tôn giáo tham gia vào các tổ chức chính trị của chế độ như quốc hội, mặt trận tổ quốc, ủy ban đoàn kết…
– kết án, coi là tội phạm, hay ít nhất không ủng hộ những ai lên tiếng chống lại sự ác hay bất công do chế độ gây ra, những người cổ võ nhân quyền, tự do dân chủ, quyền tự quyết của toàn dân…
b) Phía chế độ
Tùy theo mức độ hưởng ứng của từng tôn giáo đối với chính sách “win win” này mà chế độ cộng sản dành cho tôn giáo ấy nhiều hay ít những ân huệ, những dễ dãi – nhất là những thứ mà quốc tế có thể dễ dàng nhìn thấy được – như tự do sinh hoạt, hành đạo, xuất ngoại, quyên góp, xây dựng nơi thờ tự… Những tự do dễ thấy này – và nhiều thứ tự do mà chế độ chưa chấp nhận ban phát (thường khó thấy hơn) – vốn là những quyền tự nhiên mà các nước tự do trên thế giới cho các tôn giáo phải có. Chức sắc tôn giáo nào chấp nhận chính sách trên sẽ được nhà nước tạo điều kiện tiến thân nhanh chóng trong giáo hội của mình, được nhiều ưu đãi, được dễ dàng khi thi hành chức vụ tôn giáo của mình… Còn chức sắc nào nhất định làm theo đòi hỏi của lương tâm, không theo đòi hỏi hay quyền lợi của chế độ thì sẽ bị bạc đãi, khó dễ, khó tiến thân và không được chế độ chấp nhận cho đảm trách những chức vụ quan trọng trong giáo hội mình…
Nhận định
Chấp nhận những điều kiện trên để được tự do, được ưu đãi thì tôn giáo đã tự biến chất, không còn là tôn giáo đúng với bản chất nguyên thủy của mình nữa. Như thế thì quả là trả giá quá mắc cho sự tự do rất hạn chế của mình. Một cô gái khôn ngoan đức hạnh thà chấp nhận đau khổ, bạc đãi, tù tội chứ không đời nào chấp nhận hy sinh trinh tiết mình chỉ để nhận được những ưu đãi rẻ tiền của chàng sở khanh.
Một số tôn giáo hiện nay không coi các tu sĩ tham gia các chức vụ trong chính quyền cộng sản là làm chính trị, nên sẵn sàng chấp nhận hoặc ủng hộ việc tham gia này (*c). Nhưng mỉa mai thay chính các tôn giáo ấy lại coi những tu sĩ nào chống đối sự ác hay bất công do chế độ gây ra là làm chính trị, để từ đó tỏ thái độ phản bác, không chấp nhận hoặc ủng hộ (*d). Thật nghịch lý! Đúng ra phải hành xử ngược lại mới phải đạo. Đây là một trong những dấu chỉ cho thấy tôn giáo đã bị biến chất đến mức độ nào.
Bản chất của tôn giáo vốn có tính giải phóng, giải thoát, chống sự ác, chống bất công; nhưng trong chiến thuật mới, cộng sản biến tôn giáo trở nên “thuốc phiện” đúng như Karl Marx đã nói. Nghĩa là làm cho các tín đồ tôn giáo vui vẻ chấp nhận thân phận nô lệ, những bất công phi lý, nhân quyền và tự do bị chà đạp, không còn muốn tranh đấu để thoát khổ. Các lãnh đạo của những tôn giáo đã bị “thuần hóa” ấy thường chỉ thích rao giảng và cổ võ những đức tính mềm yếu, thụ động, vô hại cho chế độ như chuyên chăm cầu nguyện, ngồi thiền, vâng lời, nhẫn nại, chịu đựng, thầm lặng, khiêm nhường, hy sinh, chịu khó… Họ ít nhắc đến những đức tính đối lập, có tính cứng cát và năng động như: khôn ngoan, kiên quyết, dũng cảm, bất khuất, quý sự thật, trọng công lý, suy xét thấu đáo, sẵn sàng tranh đấu, can thiệp khi thấy sai trái bất công theo kiểu “ngoài đường thấy sự bất bình chẳng tha”… Vì những đức tính này rất bất lợi cho độc quyền cai trị của chế độ. Cứ như thế, các tôn giáo dần dần sẽ bị tê liệt khả năng phản kháng đối với sự ác – là thứ mà bản chất tôn giáo vốn phải có – nhất là khi sự ác ấy do chế độ gây ra. Nói theo ngôn ngữ y tế, đó là bệnh “liệt kháng tâm linh” (spiritual AID).
Khi đã trở thành thuốc ru ngủ quần chúng, không còn nguy hiểm cho chế độ độc tài, mà đã trở thành một tổ chức ngoại vi phục vụ hữu hiệu cho chế độ, các tôn giáo ấy sẽ được tự do hoạt động như tất cả các tổ chức ngoại vi khác của chế độ… Lúc đó không còn ai trên thế giới có thể phiền trách được cộng sản vi phạm quyền tự do tôn giáo nữa.
Những phương cách biến chất tôn giáo
Để tiến hành chiến thuật biến chất các tôn giáo, chế độ cộng sản đã dùng những phương cách sau:
1) Cài người vào nội bộ tôn giáo:
Đối với các tổ chức thù nghịch, một trong những việc mà cộng sản thường làm là cài người của họ vào hoạt động bí mật trong các tổ chức ấy: nếu không chủ động cài người của mình vào được thì biến một số người trong tổ chức thù nghịch thành người của mình. Trước 1975, Cộng sản đã khá thành công trong việc cài người vào chế độ Việt Nam Cộng Hòa từ cấp cơ sở đến những cấp tương đối cao nhất trong chính quyền. Vì thế, việc cài người của chế độ vào tôn giáo – nhất là khi các tôn giáo đã nằm trong tay chế độ – là chuyện dễ làm. Nếu họ đã thành công bên Đông Âu – chẳng hạn Ba Lan có tới 15% chức sắc tôn giáo làm “nội gián” – chắc chắn họ cũng thành công tại Việt Nam ít nhất ở mức tương tự. Những “nội gián” ấy thường được gọi là “hai mang”, vì họ cùng một lúc mang hai bản chất mâu thuẫn nhau: vừa là chức sắc tôn giáo, vừa là công an chìm… Họ là những người cộng sản âm thầm hoạt động trong lòng các giáo hội, hay nói cách khác, là người hữu thần nhưng chủ yếu lại hoạt động cho chủ nghĩa vô thần.
Việc cài người trực tiếp vào tôn giáo vừa khó khăn, tốn kém, vừa dễ bại lộ, nên họ thường theo cách dễ hơn là biến chính người của tôn giáo thành người của họ, hay ít ra là người bí mật hoạt động cho họ trong lòng các tôn giáo. Những phương cách như “cây gậy và củ cà rốt”, mỹ nhân kế, gài bẫy, nắm “tẩy”… tuy cổ điển những vẫn rất thường đắc dụng. Tập hợp lãnh đạo tôn giáo – dù là cấp cao nhất – một khi đã có người của chế độ hoạt động bên trong, thì kể như rất khó đoàn kết, khó có được sự nhất trí trong những quyết định quan trọng và cần thiết, nhất là khi những quyết định ấy bất lợi cho chế độ. Sự hiện diện của những “hai mang” này khiến các thành viên trong tập hợp nghi ngờ nhau, không dám thổ lộ cho nhau những gì sâu kín trong trái tim hay khối óc của mình nữa. Vì thế, chúng ta đừng mong những tập hợp điều hành suy yếu này có được những quyết định hợp thời, hợp với nhu cầu khẩn thiết của tôn giáo, nếu quyết định ấy bất lợi cho chế độ.
2) Dùng chiêu bài “tôn giáo không làm chính trị”:
Để làm tê liệt sức phản kháng đối với sự ác và bất công do chế độ gây nên, cộng sản tận dụng chiêu bài “tôn giáo không làm chính trị” vốn có sẵn trong các tôn giáo. Với chiêu bài này, các tôn giáo, các chức sắc tôn giáo sẽ trở thành câm lặng và thụ động trước các bất công rõ ràng trước mắt đang lan tràn trong xã hội…
Quả thật, tôn giáo nào cũng chủ trương không làm chính trị, thậm chí cấm các chức sắc của mình không được tham gia chính trị… Nhưng chủ trương không làm chính trị ở đây có nghĩa là không tham gia vào những chức vụ trong chính quyền, không tham gia đảng phái. Mục đích chính là để các chức sắc tôn giáo là người của tôn giáo, cũng là người của mọi người, chứ không phải là của riêng một tập thể nào. Vì khi họ tham gia vào một đảng phái hay một chức vụ nào đó trong chính quyền, họ sẽ gặp nhiều tình huống khó xử trước hai bổn phận trái nghịch nhau: nếu làm theo đòi hỏi của tôn giáo thì họ lỗi bổn phận đối với chính quyền hay đảng phái, và ngược lại. Nhưng chế độ cộng sản và các chức sắc thân cộng thường xuyên tạc ý nghĩa chính xác của chủ trương này nhằm làm mọi người hiểu lầm rằng tôn giáo tuyệt đối chủ trương đứng ngoài chính trị.
Thật ra, không luật lệ tôn giáo nào cấm các các chức sắc của mình chống lại sự ác hay bất công, dù là do chế độ, nhà nước hay nhà cầm quyền đương thời gây ra. Lên tiếng chống lại những bất công đó, tuy có thể liên can đến chính trị, nhưng không phải là làm chính trị. Các chức sắc tôn giáo chẳng những không nên tránh né việc chống lại sự ác, mà còn phải làm gương cho các tín đồ về chuyện này, nhất là khi sự ác ở tầm mức lớn lao như khi một chế độ đang làm băng hoại đạo đức của cả một quốc gia, hay làm cho nhân dân trong nước quá thống khổ…
Các vị sư Miến điện biểu tình ôn hòa chống nhà nước độc tài (*e), các giám mục Công Giáo ở Zimbabwe đồng thanh lên tiếng chống lại chế độ độc tài trong nước (*g), hay cá nhân các chức sắc khác như Đức Dalai Lama của Tây tạng, Đức TGM Oscar Romero ở El Salvador, Đức HY Sin ở Philippines, Đức TGM Nguyễn Kim Điền ở Việt Nam, v.v… chưa hề bị một tôn giáo chân chính nào kết án là đã làm chính trị khi các vị lên tiếng chống lại sự ác và bất công do chính quyền sở tại gây nên. Trái lại, chúng ta chỉ thấy các tôn giáo đề cao những việc làm ấy như những gương sáng đáng cho mọi tín đồ noi gương bắt chước. Còn những chức sắc sẵn sàng câm lặng trước sự ác và bất công, chưa hề thấy có một tôn giáo nào đề cao tình trạng thụ động ấy của họ. Trái lại, chúng ta chỉ thấy họ bị khiển trách hoặc kết án: Đức đương kim Giáo hoàng Bênêđictô nói rất nặng lời về những giám mục chấp nhận câm lặng trước bất công là “những con chó câm”, ĐGH Piô XII đã một thời gian bị nhiều phong trào trên thế giới kết án chỉ vì họ hiểu lầm rằng ngài đã không làm gì để cứu vãn người Do Thái khi bị Hitler tàn sát…
Nhưng cộng sản – và các chức sắc tôn giáo muốn dùng chiêu bài này để câm lặng hầu được yên thân, an toàn – lại tuyên truyền sai lạc rằng: Khi nào sự ác hay bất công mà do chế độ cầm quyền gây ra thì không được lên tiếng chống lại, vì như thế là làm chính trị. Còn sự ác hay bất công do ai khác gây ra mà không phải chế độ đương quyền, thì được phép chống lại, vì như thế không phải là làm chính trị. Thật là một phi lý mà trẻ con cũng nhận ra! Nhưng lạ thay, rất nhiều chức sắc tôn giáo có bằng cấp rất cao lại vin vào đó để chống chế trước tòa án lương tâm và sự phiền trách của tín đồ về sự im lặng đồng lõa của mình.
Chúng ta thấy rõ sự hữu hiệu và thành công của chiêu bài này trong sự kiện: các tôn giáo trong nước hiện nay nói chung đều e dè, ngại ngùng không dám lên tiếng chống lại sự ác hay bất công do chế độ cộng sản gây ra. Nếu có ai dám lên tiếng, thì việc bênh vực hay liên đới với người ấy cũng bị coi là làm chính trị. Chúng ta thấy rất rõ điều này khi linh mục Nguyễn văn Lý lên tiếng cho tự do tôn giáo và chống bất công xã hội, rất nhiều tín hữu Công Giáo, kể các các giám mục và linh mục đều cho rằng ông hành động như thế là sai trái vì đó là làm chính trị. Ngay cả việc ra mặt ủng hộ ông, nhận làm lễ cầu nguyện cho ông, hoặc xin mọi người cùng cầu nguyện cho ông cũng được hiểu là làm chính trị, là điều xấu, nên không dám làm.
Họ đã coi nhẹ luật chính thức và quan trọng của tôn giáo, cũng là luật của lương tâm là phải chống lại sự ác, phải lên tiếng trước bất công. Ngược lại, họ đặt nặng luật phụ thuộc trong tôn giáo đồng thời cắt nghĩa sai lạc đi. Nói theo ngôn từ Kitô giáo, họ đã coi nhẹ luật Thiên Chúa tức luật “công bằng và yêu thương” để coi nặng một cách hiểu méo mó, thiên lệch về một luật do con người đặt ra (*g).
3) “Cây gậy và củ cà rốt”:
Đây là một phương sách cũ rích nhưng vẫn luôn luôn hữu hiệu. Tôn giáo hay các chức sắc nào dễ bảo dễ nghe, chấp nhận im lặng trước sự ác thì được tự do, ưu đãi; tôn giáo hay chức sắc nào “cứng đầu”, dám lên tiếng theo lương tâm, lẽ phải thì bị bách hại, cấm cách. Luật lệ về tôn giáo, chẳng hạn pháp lệnh tôn giáo ban hành ngày 18/6/2004, đòi hỏi các chức sắc tôn giáo, nói chung, hầu như làm gì cũng phải xin phép và có được nhà nước cho phép mới được làm. Các chức sắc thuộc loại dễ bảo thì xin phép gì cũng dễ dàng được chấp thuận. Nhiều vị không xin phép mà cứ làm cũng được dễ dàng bỏ qua. Còn chức sắc nào thuộc loại không dễ bảo thì xin phép gì cũng gặp khó khăn, bị hoạnh hẹ đủ điều, dù là xin những điều thật chính đáng. Thật vậy, đang khi nhiều nhà thờ Công Giáo hoặc Tin Lành do các chức sắc thuộc loại dễ bảo quản nhiệm dễ dàng được phép xây dựng nguy nga đồ sộ, thì nhà nguyện nhỏ bé của mục sư Nguyễn Hồng Quang xin phép xây dựng rất khó khăn (*h).
Các chức sắc nào đi tu để được người đời trọng vọng, để dễ tiến thân trong xã hội, để có được một nghề tương đối dễ làm mà lương cao (good job!), chứ không phải để hy sinh cho đạo pháp, cho chúng sinh, thì rất dễ thành đối tượng của kế sách này. Các vị chức sắc loại này rất dễ và cũng rất sẵn sàng trở thành người “nằm vùng” trong tôn giáo của mình để bí mật hoạt động cho chế độ.
4) Nắm “tẩy”, cài bẫy, mỹ nhân kế
Một chức sắc tôn giáo có uy tín, có chức vụ cao trong tôn giáo, nếu lỡ có một lầm lỗi có thể làm mất thanh danh hay uy tín trước các tín đồ như không sòng phẳng tiền bạc, lỗi khiết tịnh… thì rất sợ lỗi đó bị phanh phui trước công luận. Khi bị tiết lộ, chẳng những thanh danh hay uy tín bị mất, mà các chức vụ mình đang có trong tay với quyền bính và quyền lợi đi kèm cũng có thể bị mất theo. Chế độ độc tài nắm rất vững tâm lý này, nên lợi dụng và khai thác triệt để. Một số chức sắc tuy có lòng với đất nước, nhưng đành phải im lặng trước sự ác hay đành phải chấp nhận cộng tác với chế độ hầu bảo vệ thanh danh và uy tín của mình, chỉ vì đã bị chế độ “nắm tẩy”.
Những chức sắc tương đối đạo cao đức cả, chế độ không nắm được một “tẩy” nào, thì chế độ phải cài bẫy để tạo ra “tẩy” hầu “nắm” cho được những vị này. Đã là con người, không ai chắc chắn mình sẽ không sa ngã khi bị cám dỗ quá mạnh, nhất là bị các nhà “chuyên nghiệp cám dỗ” đưa họ vào “mê hồn trận” về sắc dục, tiền bạc, quyền lực… Những sa ngã này rất đáng thông cảm và tha thứ, nhất là đối với các chức sắc trẻ đẹp, tài cao, sung sức… Nhưng ngặt nỗi dư luận không khoan dung như vậy. Đặt bẫy, chụp hình và ra điều kiện… là “nghề của chàng”, là tài chuyên nghiệp của các chế độ chủ trương “mục đích biện minh cho phương tiện”!
Một trong những phương cách cài bẫy hữu hiệu nhất là áp dụng mỹ nhân kế. Chỉ cần một liều thuốc có công dụng làm mất sáng suốt, mất tự chủ, được lén bỏ trong thức ăn hay đồ uống là đủ làm cho những đối tượng “cao tay ấn” nhất, ăn hay uống phải, có thể ngã quỵ trước sắc đẹp của nữ giới, nhất là trước những phụ nữ chuyên nghiệp thi hành kế này. Có những chức sắc rất can cường, chỉ sau một lần vị nể chấp nhận tham dự một bữa tiệc với một ai đó, bỗng nhiên mất hết dũng khí trước những sự ác mà trước đây vị này vẫn mạnh dạn chống đối…
Thiết tưởng tất cả những ai thấy mình vì yếu đuối mà lầm lỗi, hay vì thiếu sáng suốt mà bị cài bẫy, hãy tiếp tục can đảm lên tiếng chống sự ác. Đừng vì những yếu đuối nhất thời đó làm mất đi bản chất anh dũng của mình. Thà một lần chấp nhận bị mất uy tín, mất thanh danh, mà giữ được bản chất cao quý của mình. Thế giới, đồng bào và các tín đồ sẽ thông cảm những yếu đuối đó, đồng thời sẽ cảm phục sự trung thành của các vị với bản chất “chống ác phù thiện” của tôn giáo mình.

***
Đức Giêsu, Vị sáng lập Kitô giáo, nói: “Anh em là muối cho đời. Nếu muối lạt thì lấy gì ướp nó mặn lại? Chỉ còn nước ném ra đường cho người ta giày đạp” (Mt 5,13) Muối có vị mặn, tôn giáo có vị chống ác phù thiện. Tôn giáo nào gặp ác không chống, thấy thiện không phù, thì phần nào đã trở thành vô dụng, giảm giá trị, mất đi nhiều khả năng giáo hóa tâm linh; chỉ còn công dụng làm đồ trang sức, tạo vẻ đẹp ngoài vỏ cho những chế độ độc tài phi nhân. Một tôn giáo làm lợi cho chế độ độc tài, phải chăng cũng là làm chính trị, nhưng theo chiều hướng xấu? Ai có thể biến chất các tôn giáo như thế? Trước tình trạng tôn giáo mình bị biến chất, tất cả mọi tín đồ, đặc biệt các chức sắc, đều có trách nhiệm. Kẻ thấy tôn giáo mình bị biến chất nhưng vẫn mặc kệ như người vô trách nhiệm, có còn là một tín đồ tốt không? Mọi người đều phải trả lẽ trước tòa án lương tâm mình về những việc phải làm mà không làm, và những việc không nên làm mà lại làm. Trách nhiệm không chu toàn càng cao, tội càng lớn!
Chú thích
(*a) – Ác thường được hiểu là xấu xa, gian dối, có hại hay đem lại đau khổ cho nhân loại, xã hội, gia đình và bản thân. Thiện, trái với ác, thường được hiểu là tốt đẹp, chân thật, có lợi hay đem lại hạnh phúc cho nhân loại, xã hội, gia đình và bản thân
– Khuyên: về mặt lý thuyết, tôn giáo dạy con người những điều hay lẽ phải, cho con người những lời khuyên, những nguyên tắc để con người tuân theo, đưa ra những mẫu gương tốt đẹp của các vị giáo chủ hay các thánh nhân để con người bắt chước. Ngoài ra còn có đủ loại kinh sách, triết lý, giáo lý (đạo học, thần học, phật học…) để các tín hữu có nền tảng lý thuyết vững chắc cho việc hành thiện chống ác của tôn giáo. Giúp: tôn giáo cũng giúp cho con người những động lực mạnh mẽ, sức mạnh tâm linh, để con người tránh ác hành thiện, sẵn sàng can đảm, hy sinh, quên mình hầu sống vị tha,
Ngoài ra, tôn giáo còn giải phóng con người khỏi tình trạng nô lệ: nô lệ chính mình, nô lệ tha nhân, bằng cách cung cấp cho con người một nhân sinh quan, vũ trụ quan hợp lý.
(*b) Ở các quốc gia tự do, những công việc nặng nhọc mà không kinh tế này đều do nhà nước đảm trách vì họ thu thuế của dân là để làm những việc ấy. Nhà nước có thể nhờ tư nhân làm, nhưng do nhà nước trả lương.
(*c) Chẳng hạn trong giáo hội Công Giáo, nhiều linh mục được giám mục bản quyền mặc nhiên chấp nhận cho tham gia ứng cử Quốc hội và một số linh mục đã đắc cử…
(*d) Chẳng hạn một vài giám mục và nhiều linh mục đã cho rằng hành động của linh mục Nguyễn Văn Lý là làm chính trị, nên hầu hết các giám mục và linh mục Việt Nam trong cũng như ngoài nước đã không ủng hộ, tỏ ra không đồng thuận, không tỏ tình liên đới, thậm chí nhiều vị còn công kích linh mục Lý.
(*e) Xem http://www.radiochantroimoi.com/spip.php?article2625, http://www.vnn-news.com/breve.php3?id_breve=9861
(*f) Xem http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2007-04/2007-04-09-voa30.cfm, http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2005-03/2005-03-28-voa19.cfm.
(*g) Đức Giêsu trách những người loại này: “Luật Trời thì không giữ, mà lại giữ những thứ truyền miệng của con người” (Mc 7,8); Ngài nói với những người Pharisêu: “Luật nộp thì là, bạc hà, rau húng thì các ngươi coi trọng, còn điều quan trọng nhất trong lề luật là tình thương, sự công bằng và lòng thành thật thì các ngươi lại bỏ qua” (Mt 23,23); Ngài trách họ về thái độ: cái chính yếu thì coi thường, còn cái phụ thuộc lại coi trọng: “Các ngươi dạy: kẻ nào chỉ bàn thờ mà thề thì không phải giữ; nhưng chỉ của lễ trên bàn thờ mà thề thì phải giữ. Hỡi kẻ mù kia, giữa của lễ, và bàn thờ – là cái làm cho của lễ nên thánh – cái nào trọng hơn?” (Mt 23, 18-19).
(*h) Trường hợp mục sư Quang chỉ một thí dụ điển hình cho nhiều trường hợp tương tự khác. Tháng 5/2006, được cấp giấy phép xây dựng nhà nguyện sau cả một thời gian xin phép rất lâu, mục sư Quang tiến hành xây dựng nhà nguyện của ông vì nhà nguyện cũ đã xuống cấp rất nhiều. Nhà nguyện đang trong tiến trình xây dựng thì nhà cầm quyền địa phương kéo 50-60 người đến hành hung đập phá, lấy cớ là ông xây cao hơn chiều cao cho phép. (Xem http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/05/22/Saigon_Police_Destroyed_Rev_NguyenHongQuang_House_VHung/ ).
Khi người viết bài này đến tận nơi hỏi thăm mục sư Quang, ông cho biết ông không hề xây cao hơn, và cho tôi thấy những người trong nhà bị hành hung, trong đó có một tín đồ đang mang thai. Ông chỉ cho tôi thấy tận mắt vết tích của nóc nhà nguyện đang xây (tức nửa phần nhà phía trước) rõ ràng không cao hơn nóc nhà của nửa phần nhà cũ (phía sau) còn để lại.

Nguyễn Chính Kết
Ottawa, 24/10/2007.

Thursday, October 11, 2007

Quân Ðội và Chính Trị

Quân Ðội và Chính Trị
Đỗ Văn Phúc

Ðể trả lời câu hỏi: các hội Cựu Quân Nhân có nên tham gia hoạt động chính trị không?

Không riêng cựu quân nhân, mà bất kỳ một đoàn thể nào sinh hoạt trong xã hội cũng đều có quyền và có nghĩa vụ tham gia vào các hoạt động chính trị địa phương hay cao hơn vào hoạt động chính trị của quốc gia. Danh từ Chính Trị từ lâu đã bị hiểu bó hẹp trong phạm vi tranh chấp quyền lực trong chính quyền và mang ý nghĩa không hay về những màn ma nớp do những nhà chính trị chuyên nghiệp tạo ra. Thực ra chính trị có tính cách tổng quát và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi khía cạnh sinh hoạt chung.

Chính Trị Là Gì?
Theo quan niệm triết học Ðông phương có từ ngàn xưa, Chính (政) là ngay thẳng, Trị (治) là sửa đổi. Chính trị là sưả đổi, làm cho ngay thẳng. Các nhà Nho học xưa tâm niệm về con đường hoạt động của kẻ sĩ: "Cách vật, Trí tri, Tu thân, Tề gia, Trị quốc , Bình thiên hạ." Từ thấp lên cao, kẻ sĩ phải học hỏi để hiểu biết về khoa học tự nhiên, rèn luyện tư duy (Cách vật, Trí tri), tu sửa bản thân, học hỏi điều đạo đức, chỉnh đốn gia đình nề nếp (Tu thân, Tề gia), sau đó đem sở học ra giúp đời, phục vụ đất nước, bình định cả thiên hạ (Trị quốc, Bình thiên hạ). Chính trị không gói gọn trong công việc nhà nước đơn thuần về hành chánh, mà bao gồm nhiều lãnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội...là đóng góp làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn dù đang ở trong địa vị xã hội nào. Một vị thức giả mở trường dạy học là đào tạo nhân tài trong tương lai; một nhà nông có sáng kiến trong việc canh tân, phát triển nông nghiệp; một tu sĩ rao giảng điều lành, một hiệp sĩ đứng ra bảo vệ kẻ yếu trước cường hào: tất cả đều là công việc chính trị. Xưa, vua Vũ đắp đê ngăn nước lụt sông Hoàng Hà cũng là công việc chính trị (Trị Thủy). Vậy chính trị là công việc chung của mọi tầng lớp trong xã hội để làm cho xã hội tốt đẹp hơn.Quan niệm của Tây phương cũng không khác là bao. Chữ Chính Trị (Politics) do từ chữ POLIS của Hy Lạp, nghĩa là "đô thị". Hàng ngàn năm trước đây, khi toàn thế giới còn ở trong tình trạng hoang dã, thì trên mảnh đất Hy Lạp (Greece) ngày nay, có những tổ chức quốc gia nhỏ bé tầm cở những đô thị. Họ gọi là Quốc gia Ðô thị (City-States) , với dân số chừng vài ngàn người. Quốc gia đô thị theo chế độ Cộng hoà (Republic) mà theo sự phân loại của Platon là chế độ tốt đẹp nhất, vì mọi người cùng tham gia thảo luận quyết định trên cơ sở quyền lợi chung của tất cả công dân. Do tính chất nhỏ bé của Quốc gia đô thị, chế độ cộng hoà đã được thực thi nghiêm chỉnh bảo đảm cho mọi công dân hành sử quyền mình. Từ đó, chữ chính trị được quan niệm là công việc điều hành chung của tập thể xã hội. Tại Hoa Kỳ, chính trị là công việc điều hành từ Hạt (county), thị xã (city), lên đến Tiểu bang, Liên bang. Cũng là công việc điều hành trong các tổ chức, hội đoàn nhằm cải thiện sinh hoạt, đòi hỏi chính đáng cho những nguyện vọng cá nhân, tập thể. Người cầm quyền làm chính trị là thi hành chức năng hiến định của mình đem lại an cư, bảo đảm dân sinh. Ngược lại người công dân làm chính trị là đóng góp ý kiến qua báo chí, thỉnh nguyện, qua hình thức lobby, qua bầu cử, ứng cử. Họ tổ chức meeting, biểu tình, tham gia những cuộc chạy bộ, đua xe để biểu lộ ý kiến về bất cứ đề tài gì trong cuộc sống: Phá thai hay bảo vệ hài nhi, ủng hộ hay chống sự đồng tính luyến ái, bảo vệ môi sinh chống ô nhiễm, đòi hỏi một tỉ lệ nhập học cho thành phần giới tính, chủng tộc mình.... Nói chung là tất cả, tất cả những gì liên quan trong đời sống đều là đề tài cho sinh hoạt chính trị.

Con Người và Chính Trị
Là một phần tử căn bản của xã hội, ngay khi sinh ra, lớn lên, con người dù muốn dù không đã là một chủ thể, vừa là một đối tượng của sinh hoạt chính trị. Dù sống giữa đô thị lớn ồn ào chen chúc, hay lánh mình về một thôn xóm hẻo lánh, con người, với tư cách công dân, không thể thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của mọi sinh hoạt chính trị trong nuớc, cũng như những biến chuyển trọng đại của thế giới Có những phạm trù về chính trị diễn biến theo thứ tự như sau:
Ý thức Chính trị (Consciousness) :Biết phân biệt cái đẹp, cái xấu; biết điều này là thiện, điều kia là ác; biết điều đúng, điều sai, con người đã có một ý thức chính rị. Ða số con người có tư tưởng hướng thượng, mưu cầu điều tốt đẹp cho bản thân và tha nhân. Nhờ nhận thức, con người nhìn vào chính quyền, vào xã hội mà phán xét đúng sai dựa trên trình độ và quan điểm của mình. Ý thức chính trị do tự bản năng cảm nhận và được bồi dưỡng thông qua sự giáo dục của hệ thống xã hội. Vì thế, nó không thể nào không bị uốn nắn theo chiều hướng chung của xã hội qua tập đoàn cầm quyền thống trị. Hàng chục năm cầm quyền ở miền Bắc, bọn Cộng sản đã nhào nặn ra những thế hệ có những ý thức chính trị sai lạc, mù quáng để dễ bề sai khiến. Cái ý thức này ăn sâu đến nỗi sau 1975, nhiều người miền Bắc vào Nam, nhìn thấy rõ mặt thật của hai chế độ, mà vẫn khăng khăng bào chữa cho Cộng sản, vì quả thực thì phân tích, nhận thức cái đúng cái sai cũng chờ một quá trình chuyển hướng và cọ xát với sự thực.
Lập trường Chính trị (Standpoint) :Sau khi có ý thức, con người sẽ phải lựa chọn cho mình một cách dứt khoát giữa những khuynh hướng khác nhau, xác định lập trường (standpoint) là đứng hẳn về một phía mà mình cho là hay nhất (take side). Anh có thể cho điều không tốt đối với tôi là hay tốt đối với anh. Ðược thôi, đó là sự lựa chọn cá nhân của anh (personal choice), điều căn bản của chế độ dân chủ. Vì anh là một chủ thể, anh có quyền lựa chọn riêng dựa trên hiểu biết và suy luận của anh. Có nhiều trường hợp, anh có thể đứng trung lập (neutral), nhưng cũng trong nhiều trường hợp khác, anh phải chọn một, chỉ một mà thôi; ví dụ giữa Cộng sản và Tự do, không có con đường trung dung.
Thái độ Chính trị (Behaviour):Sự ra đi của một triệu đồng bào miền Bắc vào Nam năm 1954, sự vượt thoát của hàng trăm ngàn đồng bào miền Nam sau 1975 dù qua bao hiểm nguy trên biển cả, trăm phần chỉ có một phần sống, là biểu hiện thái độ chính trị với chính quyền Cộng sản. Trong các trại giam, anh em ta làm việc cầm chừng, miễn cưỡng hay phá hoại ngầm cũng là biểu hiện thái độ chính trị. Nói chung, đã có ý thức và lập trường là phải có thái độ. Thái độ có khi cần biểu lộ tích cực, có khi tiềm ẩn qua sự chịu đựng nhưng bất phục mà Cộng sản thường gọi là: "nín thở qua sông.
"Nhiệm vụ Chính trị và Hoạt động Chính trị (Obligation and Activities):Ðây là điểm mấu chốt gây nhiều tranh cải nhất. Thông thường, người ta hiểu hoạt động chính trị là tham gia các đoàn thể. đảng phái, đấu tranh vào chính quyền dành cho mình quyền lực. Nhu cầu quyền lực (Need for Power) là tất yếu cũng như nhu cầu hiển đạt của cá nhân (Need for Achievement) . Trong sinh hoạt tại các quốc gia dân chủ, luôn luôn có những Chính đảng (Political Parties) và những Ðoàn thể áp lực (Pressure Groups/ Interest groups). Chính đảng có tính cách toàn dân, là tập hợp những người chung khuynh hướng chính trị, thực hiện ba chức năng chính: Giáo dục quần chúng, đấu tranh dành quyền lực, và thực thi chương trình hành động của mình. Ðoàn thể áp lực hay còn gọi là đoàn thể quyền lợi, đại diện cho quyền lợi nhóm, thành phần xã hội, không có mục tiêu dành chính quyền, mà chỉ áp lực tranh đấu cho quyền lợi cá biệt của tập thể mình. Tại Mỹ, ta thấy có những đoàn thể lớn như các Công đoàn đại diện cho quyền lợi từng loại công nhân, đến các hội nhỏ như hội săn bắn, câu cá... Họ vận động (lobby) với lập pháp tại các cấp để đòi hỏi cho mình những quyền lợi. Có khi quyền lợi đó chỉ là sự thoải mái trong vấn đề giải trí thôi. Nhưng dù ít dù nhiều, các hội đoàn cũng rất có ảnh hưởng trong các cuộc tranh cử hành pháp, lập pháp các cấp.
Ngay cả khi không đứng trong một đoàn thể nào, cũng là một sự biểu hiện thái độ chính trị; và khi đã lên tiếng về một vấn đề nào, thì đó là một hành động chính trị. Chính đảng hoạt động qua việc tuyển mộ, tổ chức, giáo dục chính trị cho đảng viên và quần chúng. Vì thế phải có cương lĩnh sắc bén, có kỷ luật cao độ. Ðoàn thể thì tập họp trên cơ sở nội quy, có chương trình gọn nhẹ và hạn chế.

Cựu Quân Nhân và Chính Trị
Khi còn trong quân ngũ, chúng ta thường nghe kêu gọi rằng quân đội không làm chính trị. Ðiều đó có nghĩa rằng tập thể quân đội không phải là một chính đảng để ra tranh quyền, ứng cử vào các chức vụ hành pháp, lập pháp. Vì quân đội là công cụ của quốc gia để bảo vệ lãnh thổ, giữ gìn an ninh cho dân chúng. Quân đội hoàn toàn đứng ngoài, hay đứng trên hết thảy mọi đảng phái. Dù đảng nào cầm quyền, Ðại Việt, Cần Lao, Dân Chủ, quân đội vẫn tuân hành mệnh lệnh của nguyên thủ quốc gia mà theo hiến pháp là Tổng tư lệnh quân đội. Quân đội không làm chính trị là không một ai có thể nhân danh quân đội ra tranh cử, cũng như quân dội không đề cử ai đại diện mình trong các cuộc bầu cử. Quân đội đứng ngoài mọi tranh chấp quyền lực với các đoàn thể, đảng phái. Quân đội không theo thuyết Tam dân, chẳng theo thuyết Dân tộc sinh tồn, mà chỉ có một lý tưởng chung là phục vụ Tổ quốc và Dân tộc. Bất cứ quân đội nào cũng phải có một ý thức chính trị rõ rệt. Ðó là ý thức dân tộc; và phải thi hành một nhiệm vụ chính trị, đó là bảo quốc an dân. Trong thế tranh chấp Quốc Cộng, quân đội khẳng định lập trường chính trị của mình là đứng về phía dân tộc chống chủ nghĩa quốc tế, đứng về hữu thần chống vô thần, đứng về đạo lý truyền thống chống lại lý thuyết phi nhân. Ngoài dũng cảm chiến đấu nơi chiến trường, quân đội phải lo thu phục nhân tâm, đấu tranh địch vận kêu gọi cán binh cộng sản quay về với chính nghĩa quốc gia; tự củng cố để chống lại binh vận cộng sản vốn dùng mọi thủ đoạn vừa khủng bố, vừa mua chuộc, gài bẫy để ép buộc quân sĩ ta theo chúng.
Trong những quốc gia đang phát triển, quân đội đảm nhiệm vai trò quan trọng hơn hết các thành phần khác; vì quân đội là một tập hợp có tổ chức, có kỷ luật, bao gồm những thành viên ưu tú, trẻ trung. Quân đội thu nhận được trình độ kỹ thuật cao, nắm giữ chìa khoá của khoa học kỹ thuật tân tiến. Hơn nữa quân nhân là những người đầy nhiệt huyết, biết hy sinh, có lòng dũng cảm, có tinh thần cách mạng cao độ. Vì thế, khi tình thế đòi hỏi quân đội phải đứng ra lãnh nhiệm vụ lãnh đạo đất nước. Ðiều này đã xảy ra tại Ðại Hàn, Thái Lan, Hồi quốc, Việt Nam... Tự quân đội như thế đã mang bản chất chính trị. Vì vậy, quân đội ta mới thành lập Tổng cục Chiến tranh Chính trị với các sĩ quan có trình độ văn hoá, xã hội cao để nắm vai trò tác động tinh thần trong các đơn vị, đối phó với cộng sản trong cuộc chiến tranh mang màu sắc ý thức hệ. Không may ta bị thua ván cờ do sự tráo trở của đồng minh, để đất nước lọt vào tay bọn quỷ đỏ. Nhiệm vụ chúng ta không thể dừng lại. Trong trại tù, hay khi ra ngoài xã hội đầy rẫy xấu xa của Cộng sản, anh em quân nhân vẫn không ngừng đấu tranh. Tự bản thân là nung rèn ý chí bất khuất, đấu tranh chống lại cái lạnh, cái đói, thèm khát để không đầu hàng giặc. Xa hơn là động viên nhau, thương yêu đùm bọc, chia xẻ cho nhau để cùng nhau chống chỏi qua ngày tháng dài khổ đau, tủi nhục. Xa hơn nữa là khi tiếp xúc với quần chúng, giữ gìn tư cách, lập trường, làm sánh tỏ chính nghĩa quốc gia, vạch trần thủ đoạn bỉ ổi của cộng sản.
Ngày nay, định cư trên đất tạm dung khắp nơi trên thế giới, chúng ta khẳng định mình không phải là loại di dân kinh tế, tha phương cầu thực. Chúng ta vì hoàn cảnh đất nước phải tị nạn tại hải ngoại, lúc nào cũng ngóng về quê hương, góp phần gián tiếp hay trực tiếp cho phong trào đấu tranh dành lại chủ quyền. Ðiều này không những đúng cho cựu quân nhân, mà còn đúng cho tất cả những ai bỏ nước ra đi từ sau ngày quốc hận 30-4-1975. Chúng ta không những còn nhiệm vụ với tổ quốc dân tộc, mà còn nhiệm vụ với đất nước tạm dung, nơi mà một phần chúng ta, hay con cháu chúng ta sẽ nhận làm quê hương mới. Ðối với tổ quốc Việt Nam, chúng ta - ngày nay có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc - lẽ nào lại làm ngơ trước cảnh cùng cực của nhân ta ta còn ở lại bên kia bờ đại dương đang từng ngày quằn quại trong đau thương tủi nhục. Chúng ta lẽ nào quên hình ảnh những bà mẹ tuổi đã già mà hàng ngày phải làm quần quật kiếm miếng ăn. Chúng ta lẽ nào quên được hàng triệu trẻ em không được đến trường, phải lang thang đầu đường xó chợ lượm phế phẩm từ các đống rác để nuôi than. Bao em đã phải sa vào giới lưu manh cướp giật. Chúng ta lẽ nào quên các thiếu nữ Việt Nam xinh tươi không có tương lai mà phải bán mình cho bọn nhà giàu mới, bọn ngoại nhân, bọn Việt kiều phản động. Ai dửng dưng trước cảnh khổ đau của đồng bào, chiến hữu, bạn bè, thân nhân thì không xứng đáng làm người. Chúng ta không còn đủ sức lực đóng góp vào các phong trào phục quốc, thì hãy góp phần đấu tranh cho nhân quyền, hay ít ra không làm gì để nuôi sống thêm cái chế độ phi nhân tàn bạo Cộng sản. Nhiệm vụ chúng ta còn là giáo dục con cái hướng về quê hương, mong có ngày đem sở học về xây dựng lại quê hương quá điêu tàn... Biết bao điều mà chúng ta không cần phải tham gia đoàn thể nào cũng có thể làm được cho một Việt Nam trong tương lai. "Ðừng chê việc nhỏ mà không làm." Ðối với Hoa kỳ, nơi đã rộng lòng cưu mang hơn nửa triệu dân Việt; thì đối lại ta phải làm việc. đóng thuế. Ðã đóng thuế, chúng ta lại có quyền hưởng phúc lợi khi khó khăn và quyền góp ý kiến cho chính quyền tốt hơn lên. Muốn thực hiện hai thứ quyền nói trên, ta phải tham gia vào sinh hoạt chính trị địa phương. Chỉ vài chục năm trước đây thôi, người da đen và Mexico còn bị kỳ thị bởi luật pháp của người da trắng. Do sự đấu tranh bền bỉ, mà ngày nay họ được bình đẳng. Xã hội Hoa Kỳ dân chủ thật đấy, tự do thật đấy, nhưng cái guồng máy thư lại khổng lồ khó bảo đảm được mọi sự hoàn chỉnh. Chúng ta không những đấu tranh để "có được" mà còn đấu tranh để "duy trì" điều có được. Tại sao các trường học có chương trình song ngữ cho học sinh Mexico, tại sao có tỷ lệ cho dân da đen vào đại học, mà dân ta với số lương gần 15000 người tại Austin, với tỷ lệ từ 15% đến 30% tại một số trường trung học, tiểu học, lại không đòi cho được chương trình song ngữ? Tại sao chúng ta không có nhân viên cảnh sát Việt Nam để bảo vệ an sinh của người Việt, tạo nhịp cầu giữa cư dân và chính quyền? Ðó là những vấn đề chính trị địa phương mà dân ta hầu như ít quan tâm đến. Luật chơi dân chủ Hoa kỳ là "Cho và Lấy" (give and take), muốn có quyền lợi, phải đóng góp, phải lên tiếng. Ði bầu là một sự "cho" có hiệu quả lớn, chúng ta nhớ rằng đôi khi cử tri phải quyên góp tiền để ủng hộ cho ứng cử viên mình chọn. Có thế, khi họ đắc cử, mình mới yêu cầu họ giải quyết vấn đề của mình nêu ra. Hãy nhớ chính cựu tổng thống George Bush đã nói rằng cộng đồng Việt Nam không đủ mạnh để áp lực chính quyền Mỹ về các vấn đề Việt Nam. Một sự kết hợp, một thư thỉnh nguyện, một giờ đi bầu, một dollar đóng góp là những hành vi chính trị cần thiết để tự bảo vệ lấy quyền lợi chính đáng của mình.


Ðó. làm chính trị là như thế, anh em cựu quân nhân không nhất thiết phải nắm vai trò tiên phong trong sự nghiệp quang phục quê hương, mà có thể góp phần nhỏ nhoi của mình qua việc tương trợ anh em mới qua, anh em có khó khăn trong đời sống. Ðoàn kết nhất trí là hai điều kiện lớn nhất hiện nay của những người từng chiến đấu chung chiến hào, tạo được tiếng nói có trọng lượng để hỗ trợ cho các phong trào đòi Cộng sản Hà Nội trả lại quyền sống cho dân tộc Việt Nam.


Mô Hình Xã Hội Dân Sự Quốc Doanh

(*) Mô Hình Xã Hội Dân Sự Quốc Doanh: Một Vài Sự Thật Khó Nuốt

Châu Lan

Ám ảnh lớn nhất của nhà cầm quyền CSVN là để cho những diễn biến kiểu Đông Âu xảy ra tại Việt Nam, kéo sụp chế độ trong một cuộc cách mạng "nhung" không đổ máu. Do đó trong nhiều năm qua, Hà Nội đã không ngừng đả phá hai ý niệm mà họ coi là những chiến lược thù địch của Tây phương và của người Việt hải ngoại để lật đổ họ:
(1) chủ trương diễn biến hòa bình,
(2) xã hội dân sự.
Thế nhưng trong thời gian gần đây, những sự công kích mà CSVN dành cho hai chủ trương này đã ngừng hẳn. Bạn có nhớ lần chót họ lên án diễn biến hoà bình hay không? Lâu lắm rồi phải không? Và mới đây, họ lại đưa ra những dấu hiệu cho thấy họ khá mặn mà với chủ trương xã hội dân sự.
Tại sao lại có sự xoay chiều như thế? Và có thật sự là một sự xoay chiều hay không? Muốn trả lời được câu hỏi này, chúng ta cần xem xét hai chủ trương nói trên dưới con mắt của người CSVN, không phải dưới con mắt của chúng ta, những người yêu chuộng tự do dân chủ.
Trước hết về diễn biến hoà bình (DBHB). Dưới mắt CSVN, nguyên nhân sụp đổ của CS Đông Âu không phải là do những yếu tố nội tại - nạn nghèo đói tụt hậu, sự thiếu tự do hay tham nhũng - mà chính yếu là một âm mưu rộng lớn do phía Tây phương dựng lên, đã ru ngủ và làm hủ hoá ý thức đấu tranh chống tư bản của người dân Đông Âu bằng cách phô trương những thành quả của các nước dân chủ qua sự hợp tác. Khi Tây phương mở mang giao thương, xóa bỏ những hàng rào mậu dịch, đòi hỏi tự do báo chí, chủ trương toàn cầu hóa, đầu tư kinh doanh, thậm chí khi Tây phương "sáng chế" ra mạng lưới internet, những lý thuyết gia cằn cỗi của CS đã tưởng đó là những cái chiêu nằm chung trong một chương trình triệt hạ Xã hội Chủ nghĩa của Hoa Kỳ. Do đó suốt nhiều năm trời, Hà Nội đã quyết liệt chống lại DBHB mà họ coi là một cuộc chiến chống CS bằng những phương tiện "giả danh hoà bình".Thế nhưng trong những năm gần đây, CSVN học được một chân lý tuyệt vời: họ có thể nương vào DBHB để củng cố quyền lực của họ! Thật là dễ dàng. Thay vì ngăn chặn giao thương, nếu họ mở rộng hợp tác kinh tế với bên ngoài nhưng hướng tất cả những mối lợi vào Đảng CS và đảng viên CS, thì giai cấp của họ sẽ càng dễ bề thống trị, chế độ sẽ càng vững vàng chứ có mất mát gì đâu. Thay vì cấm đoán internet, nếu họ cho phép người xử dụng chỉ vào được những trang web mà họ muốn, thì sự tuyên truyền của họ chỉ càng thêm sắc xảo, hiệu nghiệm mà thôi. Họ đã hiểu được động cơ chính của Tây phương là kiếm tiền, chứ không phải lật đổ CS, và Tây phương có thể là một người bạn chứ không phải là kẻ thù. Từ đó trên những cái loa tuyên truyền cố hữu của họ, những lời đả kích DBHB đã vơi nguội dần xong biến mất hẳn. Chúng ta phải hiểu rõ: những cán bộ CS đang ăn trên ngồi chốc, vinh thân phì gia, là phần lớn nhờ vào... diễn biến hoà bình! Thật là oái oăm, nhưng đó là sự thật khó nuốt.
Qua tới xã hội dân sự, theo định nghĩa, XHDS là tất cả những tổ chức làm việc công ích cho xã hội nhưng độc lập với nhà nước, doanh nghiệp hay gia đình. Điển hình nhất là những tổ chức phi chính phủ, từ thiện, nghiệp đoàn, tôn giáo, văn hóa, những hội đoàn quần chúng tranh đấu hay phụng sự cho quyền lợi chung của nhiều người. Dĩ nhiên, nếu áp dụng đúng định nghĩa này thì CSVN phải sợ hãi XHDS ghê gớm mới phải, vì đó là một sức mạnh, tuy không liên kết, nhưng có tiềm năng quân bình lại quyền lực độc tôn của chế độ.Tuy nhiên gần đây Hà Nội đã tìm ra một chân lý tuyệt vời thứ hai: nếu biết xử dụng khéo léo, XHDS cũng có thể là một đồng minh quý giá để duy trì và củng cố chế độ. Nếu bạn chưa tin hẳn điều tôi vừa viết thì tôi xin đưa ra một vài bằng cớ.Cách đây vài tháng, một bản phúc trình đã được công bố rầm rộ bởi Viện Những Vấn đề Phát triển tại Hà Nội để đánh giá XHDS tại VN. Kết luận của bản phúc trình? Rằng VN đã có một XHDS mạnh mẽ rồi! Tiến sĩ Đặng Hữu, Chủ tịch Viện, nói: "Hàng loạt các tổ chức XHDS đã ra đời và phát triển mạnh, sự tham gia của người dân vào công cuộc phát triển ngày càng được thúc đẩy." Theo ông, phải "phát huy hơn nữa tính tích cực của người dân trong việc đóng góp vào phát triển kinh tế, xã hội cho đất nước". Hiểu nôm na theo kinh nghiệm diễn giải sắc bén của người dân VN, Tiến sĩ Hữu đại ý nói rằng: "Ai bảo là VN chưa có XHDS? Ai bảo là nhà nước VN chống lại XHDS? Các công đoàn, các tổ chức phụ nữ, thanh niên, nhà báo, nhà văn, giáo hội do nhà nước thiết lập đã có từ lâu và hoạt động rất mạnh rồi đó. Trong tương lai, chỉ cần phát huy thêm những tổ chức sẵn có mà thôi."Bạn có thể sẽ kết tội cho tôi là bẻ cong lời nói của ông, bởi vì các tổ chức do nhà nước lập ra thì đâu có đúng nghĩa là XHDS, tức là phải độc lập với nhà nước? Vậy thì tôi xin trích thêm, không phải từ Tiến sĩ Hữu, mà từ bà Tiến sĩ Irene Norlund, là điều phối viên quốc tế cho bản phúc trình quan trọng mà tôi vừa kể, một người đã cộng tác chặt chẽ nhiều năm với các giới chức CSVN và thấu hiểu căn bản suy nghĩ của họ. Bà nói gì? Xin trích cuộc phỏng vấn với đài RFA: - "XHDS là một khái niệm không được nhiều người biết đến ở VN, đồng thời lại còn bị hiểu lầm là phải có những thay đổi giống như Đông Âu khiến cho nhà cầm quyền không hài lòng." - Định nghĩa XHDS được áp dụng tại VN "không đòi hỏi phải có sự tách biệt giữa nhà nước và các tổ chức XHDS như định nghĩa được áp dụng ở Mỹ". - "Các tổ chức quần chúng chiếm một vị trí lịch sử rất đặc biệt ở VN, khởi thủy được thành lập với mục đích làm gạch nối giữa Đảng và nhân dân. Tại VN, chúng tôi ghi nhận có 5 tổ chức quần chúng cỡ lớn, như tổ chức phụ nữ, đoàn thanh niên, công đoàn, quy tụ ba, bốn triệu hội viên, hoạt động giúp đỡ cho thành phần nghèo, cho những người không may. Dù được thành lập theo mục tiêu do Đảng đề ra, nhưng các cơ sở cấp thấp hoạt động chủ yếu là phục vụ cho phúc lợi của người dân ở địa phương. Rất nhiều chuyên gia Tây Phương không đồng ý quy các tổ chức như vậy vào XHDS, nhưng VN là điểm đầu tiên mà chúng tôi đã đánh giá rằng các tổ chức quần chúng dù do nhà nước thành lập cũng chiếm một vị trí quan trọng trong XHDS". - "Chúng ta đều biết VN là một nước đang phát triển, chính quyền không thể nào cáng đáng tất cả mọi chuyện được và chính nhà nước VN cũng công nhận điều này, kêu gọi người dân, các tổ chức tiếp sức để giải quyết những vấn đề cần giải quyết."Và thêm một lời tuyên bố, lần này của ông Đặng Ngọc Dinh, Viện trưởng Viện Những Vấn đề Phát triển tại Hà Nội. Ông nói với đài RFA: "Ở Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc là tổ chức XHDS lớn nhất, bao gồm các đoàn thể, công đoàn, phụ nữ, thanh niên, nông dân, v.v."Như vậy thì quá rõ. Chủ trương của CSVN về XHDS - mà tôi gọi là mô hình XHDS quốc doanh - gồm có năm điểm:1. Nếu XHDS không dẫn đến một biến cố kiểu Đông Âu, không đe doạ chế độ thì không có gì đáng lo, mà ngược lại phải đáng được khuyến khích.2. Những tổ chức XHDS trong mô hình VN có thể do chính nhà nước CSVN lập ra và kiểm soát.3. Việt Nam sẽ là nước đầu tiên áp dụng XHDS theo kiểu quốc doanh này.4. Mặt trận Tổ quốc là tổ chức XHDS chính yếu trong mô hình XHDS của Hà Nội.5. Nhà nước CSVN dùng các tổ chức XHDS để hợp tác với mình, làm những công việc mà mình không làm nổi.Những tổ chức nào được CSVN chấp nhận là XHDS? Trả lời: các tổ chức liên hiệp phụ nữ, thanh niên, nhà văn, nhà bào, trí thức, nông dân, các công đoàn, giáo hội quốc doanh, từ thiện, Việt kiều yêu nước, du sinh đoàn kết... do họ đẻ ra. Nói rộng hơn, đó là tất cả những nhóm, những tổ chức làm việc xã hội ở VN mà không gây bất cứ phiền hà chính trị nào cho họ, lại củng cố cho quyền lực của họ một cách khách quan hay gián tiếp.Hãy lấy ví dụ Phật giáo để chúng ta rõ ý. Giáo hội PGVN (quốc doanh) nằm gọn ghẽ trong mô hình XHDS của họ, còn Giáo hội PGVN Thống nhất thì nhất định không nằm trong đó cho nên bị họ bịt miệng, bức tử. Là một thành phần của xã hội nhưng GHPGVN Thống nhất không có quyền là thành phần của xã hội dân sự - thật không có gì nghịch lý hơn! Còn một vị như thiền sư Thích Nhất Hạnh? Dù được nhiều tín đồ tôn kính, nhưng thầy Nhất Hạnh từ ngày được phép gia nhập XHDS của Hà Nội đã phải trao đổi sự gia nhập đó bằng sự im hơi lặng tiếng trên toàn bộ những vấn đề nhân quyền, như tự do tín ngưỡng. Vấn đề của Phật giáo cũng là vấn đề của Công giáo và các tôn giáo lớn khác tại VN.Hiện giờ phong trào dân oan đang là một cái gai đối với chế độ bởi vì nó không nằm trong mô hình XHDS của họ. Chờ thêm một thời gian nữa, tôi sẽ không lấy làm lạ nếu một tổ chức "dân oan quốc doanh" sẽ được dựng lên, "bênh vực" cho dân oan nhưng lại không chỉ rõ nguyên nhân nỗi bất hạnh của dân oan là bản chất phản dân chủ của chế độ. Lúc đó cái gai sẽ hết là cái gai, nhưng chưa chắc dân oan sẽ được giải oan.Một ví dụ nữa là vấn đề chống tham nhũng. Ở Việt Nam, chống tham nhũng là một độc quyền của chế độ. Không một tuần nào trôi qua mà người dân không được đọc về những quan chức bị nhà nước phát giác, bắt giữ, đưa ra tòa về tội tham nhũng. Thế nhưng khi một tổ chức đi ra từ quần chúng để chống lại mọi sự tham nhũng, kể cả tham nhũng của các đỉnh cao lãnh đạo, thì bị cấm đoán thẳng tay, chỉ vì tổ chức này không nằm trong mô hình XHDS quốc doanh.Hiểu được thế rồi, câu hỏi cần đặt ra ở đây là chúng ta, những người Việt mong muốn dân chủ, có nên hỗ trợ cho lập trường XHDS hay không? Một câu hỏi hốc búa đã được nhiều người đề cập đến nhưng chỉ trả lời vòng vo tam quốc. Chắc chắn rằng chủ trương XHDS của chúng ta, một XHDS đích thực như được áp dụng trong các xã hội dân chủ tân tiến, khác hẳn với mô hình XHDS quốc doanh của nhà cầm quyền CS, nơi đó tất cả những tổ chức XHDS phải chấp nhận luật chơi chung là không được động chạm đến cơ sở quyền lực cá nhân hay tập thể của những người cầm quyền. Như vậy, chúng ta chỉ có hai chọn lựa:- hoặc là chúng ta chơi trò chơi đó, gia nhập XHDS quốc doanh, im hơi lặng tiếng trên những vấn đề chính trị để được phép hoạt động - đại loại như GHPG quốc doanh đang làm - tức là gián tiếp hợp tác với chế độ và chấp nhận bản chất phản dân chủ của chế độ,- hoặc chúng ta không chấp nhận mô hình XHDS quốc doanh, giữ quyền tự do phát biểu và hành động của mình, đòi hỏi một XHDS chân chính, thì chúng ta sẽ bị đẩy ra ngoài XHDS, lại còn bị lên án là không tôn trọng luật chơi. GHPGVN Thống Nhất là một trường hợp điển hình như thế.Theo tôi, sự chọn lựa đầu có nghiã là chúng ta phản bội lại lý tưởng dân chủ. Chỉ còn lại chọn lựa thứ hai, và điều này có nghĩa là chúng ta phải kiên cường tranh đấu để thay đổi chế độ chính trị. Đã thẳng thắn với lý tưởng của mình thì không có một chọn lựa nào khác. Chúng ta sẽ thay đổi thể chế chính trị bằng cách hỗ trợ tất cả các tổ chức quần chúng nào không nằm trong mô hình XHDS quốc doanh.Cách đây không lâu, nhà trí thức Hà Sĩ Phu lên đài phát thanh đưa ra lập luận rằng việc nâng cao dân trí và phát triển XHDS phải đi trước, thay đổi chính trị phải đi sau. Như bạn đã thấy rõ, lập luận này mâu thuẫn ngay từ trong cốt lõi. Nói đến XHDS mà không đặt sự thay đổi chính trị lên ưu tiên hàng đầu, đó là phục vụ cho nguyện vọng thầm kín của CSVN. CSVN không mong muốn gì hơn là tiếp tục ngồi đó trường kỳ cai trị trong khi những tổ chức quốc doanh cùng với những tổ chức thuận quốc doanh lăng xăng lo lắng cho người dân, trám lỗ vào những công việc của đất nước mà CSVN không làm được hoặc không muốn làm.Một số nhà tranh đấu dân chủ đang cổ xúy cho chủ trương XHDS với lý luận rằng nếu có XHDS thì tự nhiên dân chủ sẽ tiếp nối theo sau. Họ tưởng rằng CSVN sẽ rơi vào cái tròng được bày ra, dại dột áp dụng XHDS một cách không kềm chế để rồi không thể cản nổi làn sóng dân chủ tràn tới tiếp theo sau. Nhưng biết đâu XHDS không lại là cái tròng mà những người yêu dân chủ như chúng ta có thể mắc vào, rồi bị lợi dụng để phải hợp tác, phục vụ cho chế độ dù một cách trực tiếp hay gián tiếp?Vào thời chiến tranh quốc-cộng cách đây hơn 30 năm, một cái tròng tương tự đã được tung ra khá thành công: lực lượng thứ ba! Vì quá sót xa cho dân tộc bị kiệt quệ trong cuộc chiến tương tàn mà bao nhiêu người miền Nam thương dân thương nước đã ủng hộ lực lượng thứ ba, đòi hỏi hòa bình để rồi hối không kịp. Lỗi lầm của họ là không hiểu bản chất phản hòa bình của CS, nói hòa bình mà lại không đặt việc chiến thắng CS lên ưu tiên hàng đầu. Lỗi lầm đó đã làm suy yếu miền Nam với kết quả mà chúng ta đều biết.

Châu Lan
October 6, 2007

Thursday, October 4, 2007

Để nó cho tao


Đọc thư mày lòng tao đau quặn
Thằng cụt thằng lành cùng trăn trở như nhau
Nhớ mùa hè đỏ lửa năm nao
Tao thằng lính biệt động trấn ngọn đồi Gió
Mày thằng lính dù nhảy vào An Lộc tăng viện cho tao
Được lệnh bàn giao, tao kéo quân vào thành phố
không quên chỉ cho mày bìa rừng cao su đất đỏ
giặc chốt dầy đặc, mày bảo “để đó tao lo”
Sau ba tháng tử thủ
tao ở lại Bình Long, mày ra vùng lửa đỏ (vùng hỏa tuyến)
mãi cuối tháng tư đen vẫn chẳng được tin nhau
tao vào tù rồi lưu vong nơi hải ngoại
nay bỗng đươc thư mày
lời bi hùng thống thiết
mày bảo gởi súng cho mày tao không đành đoạn
vì cuộc chiến bây giờ không còn cần đến súng đạn
mà cần đến trái tim rực lửa yêu thương
mang lý tưởng TỰ DO DÂN CHỦ và NHÂN QUYỀN
đến tận hang cùng ngõ hẻm,
khi mọi người dân đều ý thức
đó là ngày giăc cộng phải vùi chôn
nhiệm vụ của mày cùng dân oan đi biểu tình khiếu kiện
cùng công nhân bãi thị đình công
còn nhiệm vụ tao ở ngoài này
vận động chính giới nước ngoài, vận động đồng bào hải ngoại….
tao đang ứng chiến ở sân bay
chờ đến giờ G nhảy vào New York
biểu tình chống thằng nguyễn tấn dũng
tao yêu cầu mày “để nó cho tao”
cuộc chiến này không có tên Dương Văn Minh
nhưng vẫn có Nguyễn Cung Thương và Đoàn Trọng Hiếu.

Mũ nâu 52

(Thơ) Gửi súng cho tao

Nguyễn Cung Thương viết từ SaiGòn

Gửi Súng Cho Tao

Tao cụt một chân một tay,

Nhưng còn một tay
Viết thư giùm cho thằng mù hai mắt
Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
Nhưng không quên đồng đội
Chia đô la cho chúng tao, như chia máu ngày nào
Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: phế binh Việt Cộng
Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
Bởi đảng của chúng là lũ đầu trâụ...
Có điều tao không thể hiểu
Bao nhiêu năm qua
Chúng mày cứ mãi dặn dò
Thế giới văn minh, đừng làm gì bạo động
Liệu chúng mày hòa hợp được không
Với lũ kên kên hổ báo
Những con thú cực kỳ giầu có
Mang "thẻ đỏ, tim đen"
Nợ Nga, sợ Tầu, lạy Mỹ
Với quan thầy cúc cung tận tụy
Quay về đàn áp dân đen
Chúng đóng đinh Jesus lần nữa
Bịt miệng Cha, trói Phật, nhốt Sư quản lý chùa
Chúng tao lết lê trên thành phố Cáo Hồ
Nên biết rõ từng tên đại ác
Trên bàn tiệc máu xương dân tộc
Nhà hàng nào chúng cũng ăn nhậu
Bé gái nào cũng bị chúng mua trinh!
Chúng ta sẽ tỉa từng thằng
Đất nước cần nhiều "quốc táng"
Bớt được mạng thằng Cộng Sản nào
Thì địa ngục xã hội chủ nghĩa này
Còn có chút sáng láng hơn
Hãy gởi tiền cho những nhà tu
Để họ mở cửa nhà tù
Còn chúng tao là chiến sĩ
Hãy gởi về cho chúng tao vũ khí
Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
Thằng còn chân sẽ cõng thằng què quặt
Trận chiến sau cùng này sẽ không có Dương Văn Minh

Nguyễn Cung Thương, Sàigòn, VN.