Tuesday, September 22, 2015

Hạ Lào, Nơi Người Lính không về...

Hạ Lào, Nơi Người Lính không về...

Phan Nhật Nam


Ngày 12 Tháng 5, 2015, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù trở về cõi vĩnh hằng nơi Sydney, Úc hưởng thọ 87 tuổi. Ông là sĩ quan cấp bậc cao nhất của Quân Lực VNCH bị bắt tại trận địa, Mặt Trận Hạ Lào, Hành Quân Lam Sơn 719- Tháng 2, 1971. Bài viết như một lời chào kính cuối cùng gởi đến Người Lính Lớn - Chiến Binh Nhảy Dù Cố Gắng. Cũng nhân cơ hội nhìn lại một chiến dịch quân sự để thấy ra những biển lận hiểm độc chính trị đối với vận mệnh Việt Nam nói chung và Quân Lực VNCH nói riêng.


Dẫn Nhập

Từ Đông Hà, thị trấn cực bắc lãnh thổ miền Nam, Đường số 9 bắt đầu chạy về hướng Tây qua những vùng đồi Cam Lộ, Hương Hóa, Lao Bảo để cuối cùng đến Khe Sanh với tiền đồn Làng Vây, sát biên giới Lào-Việt. Qua biên giới, con đường tiếp tục đi dọc sông Tchépone một đoạn dài khỏang 40 cây số, giao tiếp với đường Hồ Chí Minh tạo nên vùng hậu cần quan trọng thuộc hệ thống Binh Trạm 604, 611 (lưu ý các phiên hiệu 604; 611- Có nghĩa, cơ sở đã thành hình từ những năm 60, 61- Thời điểm dựng bảng hiệu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 19/12/1960) của đường dây chuyển vận Bắc-Nam, nguồn huyết mạch sinh tử đối với binh đội cộng sản. Thế nên Bộ Tổng Quân Ủy Miền Bắc quyết chiếm giữ, duy trì vùng tiếp vận quan yếu nầy bằng mọi giá trong suốt cuộc chiến tranh xâm nhập, lật đổ Miền Nam.

Tổng Công Kích đợt I Mậu Thân đầu năm 1968, miền Nam đã có hơn 19,000 người chết gồm dân và lính (số chính xác là 4,959 quân nhân VNCH tử trận và 14,300 thường dân thiệt mạng) Và đến năm 1970, toàn bộ sào huyệt hậu cần, từ chiến khu C, D miền Đông Nam Bộ đến Trung Ương Cục Miền Nam trên đất Miên bị phá vỡ... Giới chức Mỹ-Việt ước đoán tiềm lực xâm lược miền Nam của phía cộng sản phải có dấu hiệu đình hoãn, hoặc suy giảm, và chiến dịch đánh qua đất Lào (đầu năm 1971) được hình thành để thực hiện quan niệm: Cắt đứt đường tiếp vận Bắc - Nam với tên thường gọi, Đường mòn Hồ Chí Minh. Nhưng không đúng với thực tế, bởi đã là một hệ thống đường có khả năng để chiến xa hạng nặng di chuyển với ống dẫn dầu, hệ thống tiếp liệu, tiếp vận quan trọng bố trí dày đặt tại điểm sinh tử Tchépone để đổi lấy một số thời gian an toàn đủ hoàn thành các đợt rút quân; ký kết Hiệp Định Paris trên thế lợi, tiếp rút khỏi Đông Dương như ứng cử viên tổng thống (tháng 10/1968) Nixon đã từng hứa hẹn với cử tri Mỹ.

Sự thật không xẩy ra như ước tính và hy vọng (!), dù với tỷ lệ khả thể nhỏ nhất. Để yểm trợ cho những mặc cả chính trị tại Hội Nghị Ba-Lê đang đi vào thời điểm quyết định (mà sau nầy sẽ thấy rõ hơn ở năm 1972), phía Hà Nội lại chuẩn bị cho lần xâm lược mới qua việc thành lập Quân Đoàn 70B chỉ huy hành quân ba sư đoàn 304, 308 và 320 – những đơn vị phụ trách toàn vùng Nam Lào, bao gồm khu Phi Quân Sự, lãnh địa cực Nam của Miền Bắc. Tướng Võ Nguyên Giáp từ Tháng 10/1970 đã ra chỉ thị cho những đơn vị trên chuẩn bị kế hoạch phản công trường hợp quân đội miền Nam tiến đánh vùng Nam Lào qua việc thiết lập những vị trí pháo, khu vực phục kích, những vùng trực thăng (có thể) đổ quân.. Có nghĩa: Phía Bắc quân đã chuẩn bị kế hoạch phản công từ khi chưa có lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 trước những bốn tháng!

Một.

Lam Sơn 719, Như thế nào? Để làm gì?


Kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 719 được thiết lập và Ngày 8 Tháng Hai, 1971, chiến dịch bắt đầu với vùng hậu cần Tchépone là mục tiêu cần phải đánh chiếm, giữ vững trong một thời hạn đủ để phía cộng sản phải giảm mức tấn công tại Miền Nam (do thiếu tiếp vận, yểm trợ chuyển đi từ Miền Bắc). Thêm một lần, vùng địa đầu Quảng Trị “được” chọn lựa làm nơi chốn cho cuộc huyết chiến, giao tranh. Nhưng cũng không hẳn như trên đã kể, bởi cuộc hành quân nầy tự khởi đầu được trù định theo yêu cầu chiến lược của phía Mỹ: Chính phủ Mỹ thiết kế chiến lược và quân Nam là nhân tố thực hiện chiến thuật.

Từ phòng tuyến Khe Sanh, đại quân Miền Nam được tổ chức nên thành ba lực lượng tấn công chính với ba hướng tiến quân, lấy đường số 9 làm địa giới trung tâm khu vực trách nhiệm. Giai đoạn thứ nhất của cuộc hành quân khai diễn đúng ngày 8 tháng 2. Hai Tiểu Đoàn 39, 21 và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn I Biệt Động; Tiểu Đoàn 2, 3 Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù do Đại Tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy được trực thăng vận xuống chiếm đóng, thiết lập, trấn giữ những căn cứ hỏa lực từ bắc xuống nam, tả ngạn sông Tchépone, nơi các cao điểm được đặt tên: Ranger North (39BĐQ); Ranger South (21BĐQ); Căn cứ hỏa lực 31 (TĐ3ND); Căn cứ hỏa lực 30 (TĐ2ND) để bảo vệ mặt bắc trục tiến quân trung phong trên Đường số 9. Từ căn cứ Hàm Nghi, đông Khe Sanh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ (đặt thuộc quyền hành quân Bộ Tư Lệnh SĐ Dù) có Tiểu Đoàn 8 Dù tùng thiết theo đường bộ tiến tới Bản Đông, tên quân sự: Căn cứ A Lưới, do Tiểu Đoàn 9 và pháo binh Dù thiết lập căn cứ hỏa lực; Căn cứ Béta (Bravo), hay Bắc Bình do Tiểu Đoàn 1 Dù (sau nầy tăng cường TĐ7 Dù), bộ chỉ huy Lữ Đoàn I Dù chỉ huy tổng quát cánh quân nầỵ

Sư Đoàn I Bộ Binh chịu trách nhiệm cánh quân mặt Nam Đường 9, hữu ngạn sông Tchépone, trực thăng vận các tiểu đoàn cơ hữu vào vùng, thiết lập các căn cứ hỏa lực Hotel, Don, Delta và Delta1 để bảo vệ cạnh sườn trục tiến quân trung tâm mà chủ yếu để nhịp tiến quân của Lữ Đoàn I Thiết Kỵ và Lữ đoàn I Dù đến đúng mục tiêu Tchépone như đã dự liệụ. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến làm thành phần trừ bị ở giai đoạn nầỵ

Tướng Abrams đã thay thế Tướng Westmoreland từ giữa năm 1968, và bắt đầu áp dụng chiến thuật “Chiếm và Giữ” thay vì “Lùng và Diệt” của Westmoreland. Với chiến thuật mới, Abrams chỉ cần khai triển những đơn vị tương đối nhỏ (không tập trung quân vào những chiến dịch lớn với những đại đơn vị, như người tiền nhiệm) và quan trọng hơn hết là chuẩn bị những đợt rút quân từ tháng 6 năm 1969, với những đơn vị vùng châu thổ sông Cửu Long, nơi được đánh giá là tình hình an ninh tương đối ỗn định, cụ thể trong Mậu Thân 1968, không có thành phố, tỉnh lỵ nào bị cộng sản chiếm cứ và gây tác động tổn thất lớn như ở Huế, Sài Gòn. Ngày 8 tháng 6, 1969 kế hoạch rút 25,000 quân chính thức được công bố với đơn vị đầu tiên, Sư Đoàn 9 Bộ Binh rời khỏi Căn Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tiếp theo, 29 tháng 9, quân số Mỹ ở Thái Lan rút đi 6000 ngườị Ngày 9 tháng 10, sau nhiều tính toán đầy kịch tính, Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird công khai trình diễn màn kịch lớn - Việt Nam Hóa Chiến Tranh - Viên đá tảng của chiến lược Nixon.

Cũng cần nói rõ thêm về yếu tố chính trị đã dẫn đến Hành Quân Lam Sơn 719. Không phải đến thời điểm 69, 70 nầy, Tổng Thống Mỹ Nixon, người được Billy Graham đánh giá và mô tả chính xác: “người được chuẩn bị kỹ nhất để làm tổng thống nước Mỹ” đã phát hiện và xây dựng nên kế hoạch. Nhưng đúng ra từ tháng 10, 1968, đang trong giai đoạn vận động tranh cử, Nixon đã nhận ra “ẩn số” của vấn đề Việt Nam - Rút quân đội Mỹ khỏi chiến trường - Lời giải phương trình nầy không do ai xa lạ làm nên, chính tổng thống đảng Dân Chủ, Johnson đã gióng trước qua Thông Cáo Chung Manila ngày 25 Tháng 10, 1968 (được hoàn thành với nguyên thủ các nước tham chiến tại Việt Nam gồm Phi, Úc, Đại Hàn, Tân Tây Lan, và Thái Lan) - Với điều khỏan trụ cột: Quân Mỹ và Đồng Minh sẽ rút hỏi miền Nam Việt Nam cùng lần quân với Bắc Việt. Hà Nội cũng phải cam kết không xâm nhập, yểm trợ lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam (?!)

Tuy đánh giá kế hoạch nầy là “không tưởng” với các phụ tá trong ban tham mưu tổ chức tranh cử, nhưng Nixon, con người với mẫn cảm chính trị tinh tế cũng đã nhận ra giải pháp thật sự có khả năng thực hiện để giải quyết mối rối Việt Nam - Cũng là phương cách hữu hiệu và an toàn nhất để “tháo gỡ” mối liên kết Nga-Hoa, đánh vỡ phần cân bằng cố kết của phe cộng sản trong chiến lược chính trị thế giớị Việt Nam Hóa Chiến Tranh Đông Dương với sự rút đi của quân lực Mỹ là bước chiến thuật vô cùng tinh tế lợi hại (lẽ tất nhiên phải chịu những hậu quả bất lợi cục bộ ban đầu) để tổ chức lại, tái phối trí lực lượng quân sự Mỹ ở vùng Châu Á-Thái Bình Dương (vấn đề Miền Nam có tồn tại được hay không theo sau kế hoạch nầy là một chuyện khác). Hành Quân Lam Sơn 719 với xương máu Lính Việt nơi vùng heo hút Khe Sanh, Tchépone là “nền tảng ban đầu xây dựng nên Trật Tự Thế Giới Mới” hôm nay, với sự biến mất không cơ hội hồi phục của lực lượng cộng sản đệ tam. Qua thế kỷ 21, chúng ta có thể nói chắc như thế mà không sợ sai lầm.

Trở lại với chiến trận, bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị lệnh hành quân đến ngày N của chiến dịch đã có những sự kiện “bất thường” tai hại để sau nầy biến hành tai họa vô lường đối với các đơn vị tham chiến. Lấy lý do bảo mật, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, cơ quan chỉ huy tổng quát cuộc hành quân hạn chế tối đa nhân sự tham dự việc soạn thảo lệnh, chỉ gồm những giới chức cao cấp (Phòng Ba, Hành Quân và Phòng Hai, Quân Báo), ban tham mưu quân đoàn dưới quyền Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, có tham dự của Trung Tướng James W. Sutherland, Tư Lệnh Quân Đoàn XXIV, đơn vị Mỹ trách nhiệm không, pháo yểm và tiếp liệu cho chiến dịch với hậu cần ở Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, Đà Nẵng.

Điển hình cho sự hạn chế nầy, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, đơn vị giữ nhiệm vụ nỗ lực chính cuộc hành quân chỉ được thông báo vào "Ngày 2 Tháng Hai - Một tuần trước khi chiến dịch khai diễn". Sĩ quan tham mưu, chỉ huy các đơn vị trực thuộc của sư đoàn Dù ra đến Đông Hà, chuẩn bị vào vùng hành quân mới biết nhiệm vụ đánh qua đất Lào - Tin tức do dân chúng truyền rao!! Nhưng thực tế, “bảo mật“ đã là một điều bi hài, sau khi chiến dịch kết thúc, cơ quan CIA tổng kết, lượng giá kế hoạch, diễn tiến hành quân, đã phát hiện ra điều nguy biến đầu tiên và chính yếu: Toàn bộ lệnh, phóng đồ hành quân, những căn cứ hỏa lực dự trù, điểm đổ quân, thậm chí vị trí hỏa tập tiên liệu, lẽ tất nhiên tọa độ phi pháo yểm (của phía Hoa Kỳ, tùy thuộc vào mức độ thông báo từ phía Mỹ đối với bộ tư lệnh Quân Đoàn I)... Tất cả tài liệu “bảo mật” nầy đồng được chụp lại, sao y phó bản từ nơi in ấn lệnh hành quân!!

Cũng không loại bỏ nguồn tin bị thất thoát từ bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, nơi Phủ Tổng Thống đường Công Lý. Sau 30 Tháng Tư, 1975, những điều tồi tệ tai họa nầy đã là sự kiện đương nhiên được xác định.

Cũng trong ý hướng bảo mật cuộc hành quân, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Mỹ ở VN- MACV ra lệnh “cấm phổ biến” đối với báo chí, phát ngôn viên quân sự được lệnh không đề cập đến diễn tiến cuộc hành quân. Nhưng, tất cả đã là một “lầm lẫn vụng về”, như Kissinger mô tả về việc “cấm vận tin tức”, vì những nguồn tin đã lan tràn khắp nơi, bắt đầu từ nhiều nguồn mối. Và khi báo lên khuôn ở Hoa Thịnh Đốn đã có đầy đủ tin tức, kể cả tin về vụ việc “cấm vận”. Cuối cùng, Ngày 4 tháng Hai, lệnh cấm vô ích nầy được chính thức bãi bỏ. Thật sự, từ Ngày 2, Tháng Hai, một tuần trước "Ngày N-Ngày Khai Diễn" của chiến dịch, tin tức và lời tố cáo “hành vi xâm lăng Lào” đã tràn đầy trên trang nhất của báo chí Mỹ cũng như toàn thế giới.

Dân biểu George Aiken, Tiểu Bang Vermont, dẫu từ dưới thời Johnson vốn là người yểm trợ chính quyền đối với sách lược thực hiện ở Việt Nam, nhưng đối với cuộc hành quân lại đặt nên vấn đề với quốc hội “Dân Mỹ có quyền “phải” được biết về tin tức mà cả thế giới đã biết theo như Tu Chính An Thứ Nhất ấn định..”

Ngày N-8 Tháng 2, 1972 Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 đã là một “bạch văn” phỗ biến rộng rãi khắp thế giới, chỉ trừ những người lính đổ bộ xuống bãi đáp đang bị pháo kích, trên Đường Số 9 dày dặt mìn chống chiến xa mà bộ đội cộng sản đã có một thời gian lâu dài để chuẩn bị chôn dấu. Cuối cùng, tai họa đã thực sự xẩy ra khi chiếc trực thăng chở phái đoàn báo chí ngoại quốc có Đại Tá Phạm Vy, Trưởng Phòng 4, kiêm Tham Mưu Phó Tiếp Vận Quân Đoàn bị bắn rơi trong tuần thứ hai khi chiến dịch đang khai diễn - Toàn bộ hồ sơ trận liệt, diễn tiến hành quân đã bị phía cộng sản thâu giữ - Sự kiện Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 bị mất không hề được báo cáo! Thế nên vấn đề “bảo mật” của cuộc hành quân thật sự đã là một hài kịch thảm hại, và Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà gánh hết phần hậu quả tai họa oan khốc nầỵ

Đối lại với kế hoạch trên của phía Việt-Mỹ, Đoàn 70B với ba sư đoàn cơ hữu thuộc vùng giới tuyến và Hạ Lào, 304, 308, và 320; với thành phần yểm trợ tác chiến gồm một trung đoàn pháo, một trung đoàn chiến xa, quân số tổng cộng khỏang 36,000 người. Do có được đầu mối từ nhiều nguồn tin mật như phần trên vừa trình bày, Hà Nội rất mực yên tâm dồn quân vào vùng chỉ để một đơn vị, Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320 giữ mặt Bắc vùng phi quân sự. Do được bảo mật tối đa, áp dụng kỹ thuật ngụy trang tinh vi, quân cộng sản bố trí một trận địa pháo dày đặt từ cối 80, pháo tầm xa 130 ly, hỏa tiển 122 ly theo một chiến thuật mới mẻ, “phân tán pháo binh-tập trung hỏa lực” để khi muốn tấn công một căn cứ hỏa lực, nhiều vị trí pháo đổ xuống cùng một lúc, phía quân Miền Nam khó lòng chỉ định mục tiêu phản pháo.

Song song với trận địa pháo, Bắc quân thiết lập một hệ thống phòng không chung quanh các bãi đáp, đường tiếp cận của phản lực khi yểm trợ, hoặc của trực thăng khi đáp xuống một căn cứ, ngoài đại liên phòng không 12ly7 thông thường, còn có những đại bác phòng không hạng trung và hạng nặng, 23, 37 và 57 ly. Quan trọng hơn hết là chiến xa T54 lần đầu tiên được dùng vào chiến trường Miền Nam, loại chiến xa hạng nặng nầy vượt trội khả năng lẫn hỏa lực so với chiến xa M41 thường dùng của quân đội miền Nam, chỉ chiến xa M48 mới có khả năng đương cự tương đương.

Đối với T54, bộ binh miền Nam với hỏa tiển chống chiến xa M72 không thể triệt hạ được. Thế nên sau nầy, khi trận chiến bùng vỡ, trước T54, người lính chỉ còn phương tiện duy nhất- Dùng chính thân xác mình với lựu đạn tay để phá hủy chúng mà thôi.

Với chuẩn bị chiến trường chu đáo, bảo mật tuyệt kỹ, quân số vượt trội, hỏa lực áp đảo, Bắc quân bắt đầu trận đánh với chiến thuật tập trung tấn công từng cụm căn cứ hỏa lực theo hướng từ Bắc xuống Nam.

Hai.

Trận chiến


Căn cứ Ranger North của Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân bị tấn công trước nhất. Sau nhiều ngày thám sát, dò đường chung quanh căn cứ, sáng ngày 19 tháng Hai, 1971, Trung Đoàn 102, Sư Đoàn 320 (tỉ lệ 4 đánh 1) sau nhiều giờ pháo kích bằng đại pháo tầm xa 130 ly, đến lượt sơn pháo bắn thẳng che cho bộ binh tấn công từ mặt đông căn cứ, nơi tuyến phòng thủ mỏng manh nhất. Vơi yểm trợ hữu hiệu của pháo binh bạn từ những căn cứ xung quanh và phi cơ oanh tạc, tác xạ sát cận tuyến phòng thủ, Biệt Động Quân giữ vững căn cứ qua ngày thứ hai, mãi đến đêm tối trận chiến mới tạm chấm dứt.

Tin căn cứ TĐ39 bị đánh bay về Sài Gòn, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Trung Tướng Lãm tạm đình chỉ kế hoạch tiến chiếm Tchepone như trù liệu vơi Lữ Đoàn I Dù và thiết kỵ?! Nhưng cũng có ý kiến sáng suốt, đấy là Tướng Abrams đã thúc dục Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên hãy ra lệnh Tướng Lãm đừng để phí thời gian, lúc cộng sản chưa chuẩn bị đủ. Ngày 14, Abrams quá nóng ruột, đích thân cùng Tướng Viên ra Đông Hà gặp Tướng Lãm và Sutherland để quan sát tại chỗ và dục ông Lãm hãy khai triển gấp Sư Đoàn I Bộ Binh trên những cao độ nam Đường 9 để bảo vệ cạnh sườn cho nhảy dù và thiết kỵ tiến chiếm Tchépone như kế hoạch, dự liệu trong vòng ba đến năm ngày. Tướng Lãm đã để khỏang thời gian quý giá nầy trôi qua cho đến ngày 18, 19 như vừa nói trên.

Chẳng hiểu quá vâng lời ông Thiệu hay không đủ tự tin, Tướng Lãm đình chỉ lực lượng thiết giáp ngưng tiến quân, không có một quyết định, ý kiến nhỏ về, từ thực tế chiến trường. Hơn thế nữa, mối liên hệ “không cộng tác” giữa những viên tướng tư lệnh sư đoàn (Tướng Đống, Nhảy Dù; Tướng Khang, TQLC) với Tướng Lãm lại là yếu tố tai hại ảnh hưởng không nhỏ đến những quyết định quan trọng tại chiến trường.

SĐ320 cộng sản thay đổi các đơn vị cơ hữu tiếp đánh vùi TĐ39, quyết dứt điểm Ranger North để có khí thế ban đầu. Ngày 20, trực thăng cố vào vùng để tản thương và tiếp tế đạn cho TĐ39, xạ thủ phòng không cộng sản bắn hạ một trực thăng tản thương, y tá Dennis Fujii phải ở lại cùng căn cứ. Trong cái rủi có điều may, Fujii trở thành y tá của căn cứ kiêm luôn nghiệp vụ hướng dẫn phi cơ oanh kích cận phòng. Cuối cùng, Fujii cũng được móc ra, nhưng trực thăng chở anh lại bị trúng đạn phải đáp khẩn cấp xuống Ranger South.

Viên y tá trở nên là nhân chứng sống cho cuộc chiến đấu kiên cường của Biệt Động Quân, khi sau nầy có những tay viết báo muốn khai thác khía cạnh bất lợi đối với quân miền Nam. Đã có nhiều lúc, những phi công F4 Phi Đoàn 40 Chiến Thuật nhìn thấy binh sĩ TĐ39 nằm trong màn lửa bom Napalm do họ thả xuống chung quanh căn cứ. Không được tiếp tế đạn, lính TĐ39 Biệt Động phải xử dụng lại súng, đạn của kẻ địch để tiếp tục trận chiến. Cuối cùng, chiều tối ngày 21 tháng Hai, sau hơn ba ngày đêm đương cự, với 178 người chết và bị thương nặng, quân số Tiểu Đoàn 39 chỉ còn 107 người, kể cả bị thương nhẹ có thể chiến đấu; quân cộng sản xử dụng một lực lượng (không phải gấp ba, bốn lần hơn như những ngày đầu trận đánh) tới 2,000 người với vũ khí mới trang bị, để thay thế cho hơn sáu trăm xác bỏ lại lềnh kênh quanh căn cứ (không ảnh đếm được số chính xác là 639), quyết trả hận biệt động quân.

Nửa đêm, nương bóng tối, TĐ39 phải bỏ căn cứ rút về Ranger South. Cộng quân không chịu mất đà, dồn nỗ lực pháo cối dập xuống căn cứ Nam (Ranger South). Để giữ tinh thần chiến đấu cho binh sĩ còn lại và đỡ gánh nặng cho Tiểu Đoàn 21, một cuộc hành quân không vận với phối hợp chặt chẽ giữa phi cơ chiến thuật và trực thăng võ trang, 13 trực thăng đã hoàn tất một cuộc tải thương chớp nhoáng, lấy ra được 112 thương binh kể cả anh chàng “tiền sát viên bất đắc dĩ” Fujii. Tiểu Đoàn 21 sau khi mất điểm tựa phía Bắc (Ranger North), cùng thành phần còn lại của TĐ39 rút về Đồi 31 của nhảy dù, sau đó được di tản khỏi vùng hành quân.

Chiến sử Lam Sơn 719 đoạn đầu với Biệt Động Quân được Tướng Sutherland đánh giá: “Một chiến thắng lớn của Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”, cho dù có những bôi bẩn ác ý do đám phóng viên tụ tập tại Khe Sanh khai thác hình ảnh ăn khách “lính bám càng trực thăng” trở về từ Hạ Lào do một vài binh sĩ trong cơn hốt hỏang, nhân lần tải thương kể trên đã bỏ trốn khỏi vùng hành quân. Ngoài ra, có một sự kiện xẩy ra nơi xa nhưng quả thật đã ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường Hạ Lào - Nếu như Tướng Đỗ Cao Trí không tử nạn máy bay (đến giờ nầy vẫn còn là một nghi vấn) và ông có mặt tại Khe Sanh trong ngày 23 Tháng Hai - Ngày Biệt Động Quân rời bỏ căn cứ thì có lẽ tình thế Lam Sơn 719 đã đổi khác. Bởi đã hơn một lần, với những đơn vị biệt động như những Tiểu Đoàn 21 và 39 nầy, năm 1970, Tướng Trí đã một lần tạo nên kỳ công ở chiến trường Campuchia. Lịch sử rất nhiều lần bị biến đổi hẳn do những nguyên nhân rất nhỏ và bất ngờ. Bi kịch Hạ Lào tiếp diễn với lực lượng nhảy dù nơi Đồi 31 và 30 khi mặt Bắc hoàn toàn trống trải nguy nan.

Dư luận chính trị thế giới nói chung và riêng nước Mỹ thật không hề công bằng đối với quân lực Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa; không phải những tiếng lời phát xuất từ số đông quần chúng bình dân hoặc những bài báo độc địa, xuyên tạc của đám ký giả ngoại quốc hạng nhì, nhâng nháo nơi những quán rượu Sài Gòn; nhưng khởi động từ những nhân vật có thế lực, ảnh hưởng, tác động đến cục diện toàn cầu như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Than; Trưởng Khối Đa Số Thượng Viện Mỹ, Mike Mansfield... Tất cả những nhân vật tiếng tăm nầy đồng dấy lên chiến dịch tố cáo: “Quân đội Mỹ tấn công chiếm đóng Lào!”, tức hàm ý cáo buộc lực lượng Mỹ của Tướng W. Sutherland qua hành quân Dewey Canyon, yểm trợ quân đội Miền Nam thực hiện Lam Sơn 719.

Cần nói thêm một lần để xác định: Bộ binh Mỹ không hề vượt qua biên giới Việt-Lào ở địa điểm Làng Vây. Lẽ tất nhiên, những lời cáo buộc trên được lập lại nguyên bản với bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Liên Xô, Trung Cộng và Hà Nội. Cụm từ ngữ “Chiến tranh đế quốc xâm lược Mỹ”dần trở nên là một “thực thể” của diễn tiến chính trị thế giới - qua báo chí (cũng nơi đất Mỹ) - thúc dục những đám phản chiến xuống đường kêu gào “hòa bình” và “giết Nixon cùng tất cả những kẻ nào chận bước tiến (của chúng ta) tới... tự do”. Những lời đao búa nầy của David Hilliard, thủ lãnh nhóm Báo Đen được Washington Post tán tụng: “... Xuyên sâu những ngôn từ mạnh mẽ hùng hồn nầy, chúng ta khám phá ra những điều kỳ lạ và đẹp đẽ biết bao. Họ (những kẻ phản chiến) đã là hỗ trợ cho những điều tốt lành nhất đối với đất nước!!”.

Tất cả những cáo buộc sai lạc hàm hồ nầy được thành hình từ đầu Tháng 2, 1971, khi lực lượng VNCH còn ở trong lãnh thổ Việt Nam. Những kẻ trên hoàn toàn không biết (do ngu muội) hoặc không muốn biết (do ác ý) sự kiện: “Quân xâm lược thực thụ phải là đoàn quân có danh hiệu Quân Đoàn 70B của cộng sản Bắc Việt. Để sau 1975 được được chính Tổng Bí Thư Lê Duẩn hãnh diện xác nhận: Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô"

Nhắc lại thêm một lần cũng không không thừa: Binh đoàn quân đội chính quy cộng sản Bắc Việt đã thành hình và có mặt nơi đất Lào từ năm 1970. Chính phủ Lào ở Vạn Tượng cũng không nói những gì khác và đúng hơn về những điều gì đang xẩy ra trên đất nước họ.

Cánh quân trung phong gồm Lữ Đoàn I Nhảy Dù với các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Lữ Đoàn I Thiết Kỵ từ căn cứ Hàm Nghi tiến chiếm những những mục tiêu Bravo, Alpha, A-Lưới trên Đường 9 không mấy khó khăn dù hướng tiến quân đã bị gài đặt mìn bẩy từ nhiều ngày qua. Căn cứ tiền phương A Lưới, cách Tchépone khỏang dưới mười dặm được thiết lập vào buổi chiều ngày 8 đúng như dự định, bộ phận bộ binh Bắc Việt giữ chốt trên Đường 9 không ngăn nổi sức tiến quân nhanh chóng, thần tốc của nhảy dù và thiết giáp. Hơn thế nữa những pass B52 đánh theo yêu cầu chiến thuật của lực lượng dưới đất, dọc hai bên con đường đã hủy diệt phần lớn cánh quân phục kích nầy. Các đơn vị nhảy dù trên Đường 9 khám phá nhiều kho tàng vũ khí quan trọng, gồm 3,000 xe đạp mới, cũ, kho nhiên liệu xăng, dầu cặn, áo quần, lương khô Trung Cộng, Nga lần đầu tiên được xử dụng ở chiến trường miền Nam và hằng trăm, ngàn xác chết vương vải không toàn thây của những đơn vị Bắc Việt.

Về chiến trường mặt bắc Đường 9, Tiểu Đoàn 2 và 3 Dù được trực thăng vận xuống hai Đồi 30, 31; hai căn cứ hỏa lực được thiết lập với chỉ danh của hai cao độ nầỵ Nhưng chiến trường không hề thuận tiện như những ngày đầu vì Bắc quân đã gióng trước với lính Dù qua máy truyền tin: “...chúng mầy sẽ biết thế nào là trận địa pháo của quân giải phóng!” Lời đe dọa không hề là giả thiết và cảnh địa ngục thật sự đã mở ra.

Chúng ta hãy chứng kiến một đoạn về trận chiến nơi Đồi 31, căn cứ hỏa lực Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù, cũng là vị trí đầu cầu của Tiểu Đoàn 3 Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Uý Phạm Đồng (tác giả Phan Hội Yên) được lệnh chiếm đóng trong những ngày đầu của chiến dịch. Viên Trung Úy Trung đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 33, kể lại trong tập chuyện “Hạ Sĩ Khinh Binh”: “Tôi phất tay cho trung đội đồng loạt ném hết số mìn chiếu sáng về phía trước... Tách! Tách!...Xoè...xoè... Bốp, bốp... Ngọn lửa bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía địch quân; râu tóc mặt mày chúng tôi cũng cháy nám khét lẹt. Thế thượng phong ngàn năm một thuở... Lửa cuộn trong tiếng quân reo. Lửa tràn lên theo cỏ tranh dòn dã, khói bốc mịt mù... Khói làm màn che cho quân ta tiến tới. Vùng vẫy trong bão lửa, quân xông lên.

Lưỡi lửa liếm một vòng cung, thắt gọn vị trí địch trong vùng hỏa công dữ dội. Những căn hầm được nguỵ trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành mồi ngon cho ngọn lửa. Hầm đạn nổ tung tóa, cả vùng đồi nhanh chóng ngập tràn biển lửa. Địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có kẻ trên lưng đang bốc khói.

Tổ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm lĩnh trận địa, thanh toán nhanh những ổ kháng cự yếu ớt còn sót lại.. Làm sao có thể chống cự được, khi trước mặt là lửa táp, khói thốc theo luồng gió lùa vào mồm, mũi... Chưa kịp dụi mắt, ngáp gió, lấy hơi, quân ta đã tiến tới, lưới đạn càn quét, quyết liệt... Trong ráng chiều chưa tắt, nắng xuyên qua khói, lửa giải xuống chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp toáng bóng quân chạy dọc ngang trên đỉnh đồi như phút giây linh thiêng hào hùng sông núi chuyển mình...”

Sau khi trung đội của Trung Úy Phạm Đồng đã chiếm lĩnh được mục tiêu với lần mất đi sinh mạng những chiến hữu thiết thân, những khinh binh Chí, đề-lô pháo binh Tâm, và chỉ dấu thua thiệt lớn nhất: Đại Uý Lê Thành Bôn, đại đội trưởng, tác giả của trận đánh hỏa công của đoạn viết kể trên. Đồi 31 trở nên cảnh chết tàn khốc vào ngày 25 tháng Hai: “Sau trận tập trung pháo kích, xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong... Hai, ba, năm... bảy, tất cả mười một chiếc bỏ lại bộ binh (của phía Bắc quân), cùng lao xuống đồi về phía chúng tôi. Một chiếc đang bò ngang chông chênh trên sườn đồi lãnh ngay một trái 105 trực xạ, hất nhào xuống vực thẳm. Nhưng đoàn xe tăng vẫn tiếp tục vừa bắn vừa tiến và chiếm dần bãi trực thăng.

Hạ sĩ nhất Chính và tiểu đội khinh binh lãnh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu khi tăng tiến qua bãi đáp, tiến vào yên ngựa hẹp (giữa hai đỉnh đồi) trước khi bám đánh khu vực phòng thủ trung tâm căn cứ. Chính dẫn theo Bình, Tám, Ngôn, mỗi người thủ sẵn một cây M 72 (hỏa tiễn chống chiến xa) đã ở vị trí chờ kích hỏa; Chuẫn úy Nghĩa, trung đội phó, đòi đi theo tổ khinh binh; mắt anh hừng hực uất hận bởi thấm đau từ lần đụng trận đầu tiên của đời lính, đã hiểu nghĩa tận cùng cào xé trước xác thân đồng đội.

Mỗi người chúng tôi quả có tâm lý của kẻ không đường trở lại, phải tiến lên phía trước, vượt qua hèn mọn của chính mình... Mất đi ý niệm phân biệt sống, chết. Mà có khi phải chết còn thanh thản hơn được sống!! Hai chiếc tăng ùn ùn tiến vào khu vực trung tâm, Nghĩa nhảy phắc lên chiếc thứ hai, thảy gọn trái M26 vào lòng pháo tháp. Anh chưa kịp nhảy xuống thì trúng đạn, nằm chồng lên xác địch thủ. Cùng lúc, có tiếng nổ “bục” tức tối, khói từ trong chiếc tăng bốc lên... Nhưng sao nó vẫn tiếp tục chạy! Quờ quạng được một đoạn ngắn, chiếc chiến xa nổ tan làm hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng xác Nghĩa.

Và trận đánh kết thúc với cảnh tượng vô vàn bi tráng mà phải là người trong cuộc mới có thể viết nên với những giòng đẫm máu như sau:

“... Ba phần tư ngọn đồi đã nằm trong tay địch, chúng tôi (Đại đội 31 và 33) chỉ còn giữ được một phần bộ chỉ huy tiểu đoàn và lữ đoàn, nhưng không còn ai trong những vị trí hầm chỉ huy cả, tất cả đã ra ngoài, sát vai tác chiến cùng khinh binh, xạ thủ nơi tuyến đầu; hệ thống truyền tin chỉ huy vẫn được duy trì ở cấp trung đội, dù trên thực tế, mỗi trung đội còn không quá mười người...

Tất cả khái niệm sống, chết đã trở thành vô nghĩa. Và cũng không còn thì giờ hoàn cảnh để chọn lựa. Những người lính còn lại của lữ đoàn đồng hăm hở lao lên trong cố gắng tuyệt vọng... Bắn... bắn, thụt thêm một trái M72 đi. Lựu đạn... lựu đạn... Những bóng áo rằn rì nhảy lên pháo tháp xe tăng địch, những thân người vùng vẫy cào cấu, lắt lẻo trên thành xe, tan nát dười lườn xích sắt. Bây giờ bộ binh địch đã phối hợp cùng chiến xa, tràn lên căn cứ... Mặt đối mặt với lưỡi lê, báng súng, lăn xả vào nhau, bắn giết, đâm chém... Hoặc loay hoay với những khối sắt không làm sao phá vỡ với tay trần, với vũ khí cá nhân.

Bom bầy, pháo lũ dội xuống... Bom của ta, pháo của địch, lưới lửa của cả hai bên đồng chụp xuống một chỗ, lính hai bên cùng chia nhau lãnh đạn... Những chiếc nón sắt rơi lông lốc, những đôi dép râu đứt quai nhầy nhụa trong dòng nước đỏ ối, đậm đặc đang dần kết thành giải suối máu lăn lóc chảy chậm xuống sườn đồi!!

Cuối cùng, hai Đại Đội 33, 34/TĐ3ND không thể nào giữ được Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 31 do quân Bắc Việt tập trung toàn bộ lực lượng bộ binh của mặt Bắc Đường 9 được pháo 130 ly yểm trợ, chiến xa T54 dẫn đầu... Những chiến xa hạng nặng nầy cày vỡ tất cả công sự chiến đấu của Đồi 31, đè sập hầm chỉ huy của Lữ Đoàn III nên Đại Tá Thọ đã yêu cầu pháo binh nhảy dù bắn tiêu hủy ngay trên vị trí phòng thủ. Trung Tá William. N. Peachey, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ158/Không Vận Mỹ từ trên chứng kiến những giây phút bi thảm cuối cùng của Đồi 31. Đến một lúc, lính Bắc Việt không cần phải nổ súng bởi những chiếc T54 chỉ việc đè lên những người lính nhảy dù trấn giữ đồi 31.

Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan Lữ Đoàn III, Tiểu Đoàn 3 Dù, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh gồm Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Trung Tá Trần Văn Châu, Thiếu Tá Trần Văn Đức, Đại Úy Lê Đình Châu và nhiều sĩ quan trung cấp, hạ sĩ quan, binh sĩ bị bắt sống, phần đông đã bị thương, mất năng lực chiến đấu, hết đạn, vũ khí không còn xử dụng vào những ngày trước khi căn cứ bị tràn ngập.

Lực lượng nhảy dù quả đã hẳn ưu thế chiến đấu khi bị bó chặt nhiệm vụ trên những cao độ không còn được yểm trợ liên hoàn, do để trống mặt Bắc khi các Tiểu Đoàn Biệt Động 21, 39 phải rời bỏ căn cứ như đã trình bày ở đoạn trên. Sự kiện mất căn cứ Đồi 31 cũng có nguyên do là đoàn chiến xa M 41 thuộc Thiết Đoàn 17 Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ có hai đại đội Tiểu Đoàn 8 Dù từ căn cứ A Lưới được lệnh di chuyển tăng cường cho Đồi 31 đã không đến kịp điểm hẹn. Toán quân nầy lại bị phục kích vào ngày sau khi trên đường tiến gần mục tiêu, cuối cùng nhờ B52 đã can thiệp hiệu quả bằng cách dội bom tiếp cận đội hình tiến quân, phá vỡ trận địa phục kích của Bắc quân. Sau hai pass B52, chiến trường hoàn toàn yên lặng, người sống sót nằm ngất trên mặt đất bị đào xới tung tóe lầy nhầy thịt xương người của các đơn vị bộ đội thuộc Sư Đoàn 320. Tổng số 800 xác chết là số lượng đếm được về đơn vị cộng sản bị giết bởi B52.

Căn cứ Đồi 31 thất thủ, Đồi 30 do Tiểu Đoàn 2 Dù trấn giữ còn lại trơ trọi suốt một vùng mặt Bắc Đường 9, và biến thành điểm lửa của toàn bộ hệ thống hỏa tập Bắc quân. Nhưng kỳ diệu thay, do bản lĩnh riêng của viên tiểu đoàn phó và sĩ quan hành quân, Thiếu Tá Nguyễn Văn Mạnh, Đại Úy Trần Công Hạnh, tiểu đoàn đã cầm cự được suốt một tuần sau và chỉ rời bỏ căn cứ khi Hotel (danh hiệu truyền tin của Đại Úy Hạnh) trực tiếp liên lạc với phi hành đoàn của các phi cơ yểm trợ chiến thuật và trực thăng Mỹ để tác xạ trực tiếp và dội bom lên ngay tuyến phòng thủ đơn vị...

Nương theo khe hở sống chết nầy, Tiểu Đoàn 2 rút khỏi vòng vây với quân số chỉ bị tổn thất tương đối. Hơn thế nữa, đơn vị nầy trên hướng di tản khỏi căn cứ còn mở đường cứu vây Tiểu Đoàn 7, đơn vị vào tăng cường cho TĐ1 và TĐ 8, hai tiểu đoàn nầy cũng đã bị tổn thất nặng trong tuần lễ cố giải vây cho Lữ Đoàn III Dù ở đồi 31 (Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Phan tử trận; hai tiểu đoàn phó, Trần Đăng Khôi, TĐ7; Đào Thiện Tuyển, TĐ8 bị thương nặng, phải di chuyển khỏi vùng hành quân). Cuối cùng, lệnh tiến chiếm Tchépone như dự trù với lực lượng nhảy dù và thiết kỵ trên đường 9 không hề được thi hành. Lời thúc dục, khuyến cáo của Tướng Cao Văn Viên, Abrams với Tướng Lãm tại Đông Hà ngày 16 tháng Hai về việc thực hiện quan niệm hành quân trên đã không hề được quan tâm. Nghi án sự chậm trễ và thay đổi kế hoạch điều động các đơn vị đến nay vẫn còn là một ẩn số chưa có lời giải thích thỏa đáng.

Ba.

Tchépone,

Chiếc bẫy sập đóng lại


Khi lực lượng nhảy dù và thiết kỵ bị cầm chân ở A-Lưới thì việc tiếp tục tiến chiếm Tchépone với bộ binh chỉ còn là một “mục tiêu bề mặt”, cốt để biện hộ một cách tai hại về một ước tính quân sự sai lầm, nhằm mục đích yểm trợ cho một sách lược chính trị. Sách lược ấy được nhận ra, khi Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn báo cáo về Hoa Thịnh Đốn một nội dung khả thể, đêm 7 tháng 4 Tổng Thống Nixon có thể nói cùng dân chúng Mỹ: “Đêm nay tôi có thể báo cáo rằng chính sách Việt Nam Hóa đã thành công!!", nhằm trấn an những nhóm biểu tình phản chiến, đòi cải thiện chế độ an sinh xã hội cho người da đen ở các tiểu bang miền Nam nước Mỹ.

Ngày 3 tháng Ba, hai Lữ Đoàn A, B Thủy Quân Lục Chiến từ Khe Sanh được đưa vào thay thế các đơn vị Sư Đoàn I Bộ Binh thuộc vùng trách nhiệm hai căn cứ Delta và Hotel. Như thế, mặt trận Hạ Lào chỉ còn một lữ đoàn TQLC làm thành phần trừ bị; cũng có nghĩa tương tự đối với toàn bộ lực lượng quân sự miền Nam. Những tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư Đoàn I rời bỏ vùng vừa bàn giao, tiến sâu về phía Tây, lập các căn cứ hỏa lực Sophia, Liz và LoLo trên các cao độ 748, 690, và 723, Đông-Nam mục tiêu Tchepone. Lolo thực sự chỉ là một bãi đáp chứ không hẳn là một căn cứ hỏa lực.

Ngày 6 tháng Ba, một phi đội khổng lồ gồm 120 trực thăng Huey được trực thăng võ trang Cobra và phản lực chiến đấu yểm trợ bao vùng đổ quân bộ xuống bãi đáp Hope, bốn cây số Đông-Bắc Tchépone, sau khi B52 đã trải thảm dọn sạch khu rừng rậm hằng trăm năm không dấu vết người chung quanh bãi đáp. Cuộc không vận được xếp hạng là một trong những hành quân đường không lớn nhất chiến sử Đông Dương; năm 1954, lực lượng không quân vùng Tây-Bắc của Tướng Cogny chỉ có đúng hai trực thăng Alouette cho Chiến Dịch Castor để chiếm đóng Điện Biên Phủ.

Cuộc không vận đưa Tiểu Đoàn 4/Trung Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 2 vào vùng lửa Tchépone, đây là hai đơn vị ưu tú nhất của Sư Đoàn I do Trung Tá Lê Huấn và Trung Tá Trần Ngọc Huế chỉ huy; cả hai cùng Khoá 18 Trường Võ Bị Đà Lạt và được đánh giá là những sĩ quan xuất sắc của khoá. Nhưng dù hai tiểu đoàn trên có gồm những người lính can trường, được chỉ huy bởi những sĩ quan xuất chúng bao nhiêu, cứ điểm Hope mà hai đơn vị có nhiệm vụ đổ bộ xuống để rồi sau đó làm đầu cầu đột kích trong im lặng tuyệt đối vào “thị trấn Tchepone” đã là một nơi hoang vắng với những thây chết rải rác cũng có nghĩa “Kế Không Thành” mà Bắc quân giương ra đã hoàn tất.

Toàn bộ các bãi đáp, địa điểm nầy đã là những “điểm hỏa tập tiên liệu“ của pháo, cối, hỏa tiễn diện địa của bộ đội cộng sản. Kết quả bi thảm đương nhiên xẩy đến, Tiểu Đoàn Trưởng Lê Huấn tử trận, Trần Ngọc Huế bị bắt sống... Hai tiểu đoàn tan vỡ như những mảnh vụn của những khẩu pháo 105 thả xuống ở các căn cứ Hope, Sophia, Liz... Có những khẩu chưa hề bắn được một viên đạn, vì những lưới đạn quả thật chưa hề được thả xuống kịp trước khi các căn cứ tan vỡ. Ông Thiệu ra lệnh “rút quân” sau “chiến thắng Tchepone”, bất chấp lời khuyến cáo từ phía Tướng Abrams - Tăng cường Sư Đoàn 2 Bộ Binh cho mặt trận Hạ Lào và giữ chặt nút chận Tchépone để hoàn thành mục tiêu chiến lược - Cắt đứt đường tiếp vận Bắc-Nam của quân đội cộng sản.

Cuộc rút quân không chuẩn bị tất nhiên biến thành lần tháo chạy, khi các căn cứ lần lượt bị đánh vỡ, mất hẳn thế “yểm trợ liên hoàn - viên đá tảng cột trụ của chiến thuật Căn Cứ Hỏa Lực”. Sau Sư Đoàn Nhảy Dù của giai đoạn đầu, Sư Đoàn 1 Bộ Binh ở giai đoạn hai, tiếp theo, đến lượt Sư Đoàn TQLC chịu lần phanh thây trên những đỉnh núi trần trụi dưới cơn mưa lũ đại pháo của Bắc quân được chuẩn bị từ một năm trước, năm 1970.

Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến nhận vùng trách nhiệm, bố trí các tiểu đoàn theo hướng Bắc-Nam. Tiểu Đoàn 4, 7, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A có pháo binh Tiểu Đoàn 2 Pháo yểm trợ. Căn cứ hỏa lực chính được Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” bảo vệ, đồng thời làm thành phần trừ bị. Phía Nam, Lữ Đoàn A, hai tiểu đoàn 3, 8, có nhiệm vụ phá thế trận cộng sản bao vây, chia cắt. Nhưng tất cả phối trí chiến thuật nầy đã trở nên bất khả dụng, bởi phe cộng sản đã chuẩn bị đủ cho chiến trường, từ quốc tế đến quốc nội, với biểu ngữ của đám biểu tình phản chiến ở Mỹ đến Dinh Độc Lập ở Sài Gòn.

Cụ thể nơi mặt trận Hạ Lào, quân cộng sản đã bắn không trật một viên đạn ra ngoài các căn cứ hỏa lực. Và sau khi các căn cứ nhảy dù ở mặt Bắc bị tràn ngập; Sư Đoàn I Bộ Binh phải rút bỏ sau cái gọi là “chiến thắng chiếm đóng Tchépone”; vùng trách nhiệm của TQLC gánh khối nặng còn lại của trận chiến vô lý bi thảm nầỵ. Lữ đoàn A TQLC với Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” của Tiểu Đoàn Trưởng, “Robert Lửa” Nguyễn Xuân Phúc trở nên thành tụ điểm tất cả nguồn lửa lớn của chiến trường.

Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc nói với Đạt, chỉ huy trưởng pháo binh, đơn vị pháo còn lại duy nhất của trận địa: “Ông khỏi yểm trợ cho ai nữa, hạ nòng súng xuống, “cua” nó lên con nào, ông nướng con ấy cho tôi”.

“Cua”, Phúc dùng chữ với ý khinh miệt hơn nghĩa khối hài để nói về những chiến xa của Bắc quân. Và đến lúc cuối cùng, Phúc hét lớn qua máy truyền tin: ”Khỏi cần hỏi lệnh tôi, còn bao nhiêu đạn ông cứ chơi hết bấy nhiêu…” Hai Tiểu Đoàn 4 và 7 ở vùng ngoài căn cứ vùng vẫy tuyệt vọng giữa đám kẻ thù say máu như con hổ trọng thương bị loài kên-kên rúc rỉa. Phúc hướng dẫn từng phi tuần từ hạm đội bay vào cứu bạn. Những viên phi công Mỹ dần quen với giọng nói của “Foxtro” (ám danh đàm thoại không-lục của Phúc với phi công Hạm Đội 7), để đến một đêm… Đêm hỏa ngục lật ngược để bày ra trên trần gian nguồn lửa lênh láng hung tàn không hề cạn. Lửa rùng rùng lay động suốt dãy núi rừng ầm vang tiếng nổ. Tiếng nổ của đại pháo, hỏa tiễn bắn từng đợt, từng tràng một lần mười, hai mươi trái, từ bốn, năm vị trí. Trong chuỗi âm động quái dị ấy, súng tay dì đẹt nhỏ nhoi như một loại pháo lép và cuối cùng với những đợt bom. Bom ném một lượt từ ba phi tuần phản lực nối cánh nhau như cảnh tượng trong các phim chiến tranh. Phi cơ Mỹ bao vùng suốt từ sáng sớm, Đà Nẵng, Thái Lan, Hạm Đội 7, Guam qua chiều vào đêm, bay đến…

Đêm đến, Bắc quân từ hang ổ, đường thông thủy, giao thông hào, điạ đạo theo xe tăng tấn công lên đồi tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A, Tiểu Đoàn 2 Pháo qua hàng rào phòng thủ của “Trâu Điên”. Và Tiểu Đoàn 2 TQLC quả thật là một con trâu điên đơn độc đương cự giữa bầy sài lang nanh vuốt. Phúc đã theo dõi và thấm hiểu nổi đau những lần thất thủ của các đơn vị bạn, những Tiểu Đoàn 37 Biệt Động, Tiểu Đoàn 2, 3, Lữ Đoàn III Dù… Hai tiểu đoàn 4, 7/TQLC ngoài căn cứ chỉ còn một đường liên lạc qua hệ thống truyền tin của Tiểu Đoàn 2. Phúc hướng dẫn phi cơ Mỹ thả trái sáng để hai đơn vị nầy lần đường về phía Nam, nơi các tiểu đoàn 3 và 8 đang đợi “bắt tay”. Bộ chỉ huy lữ đoàn hoàn toàn tê liệt, pháo binh cũng chỉ còn những viên đạn cuối cùng, Đạt báo cáo với Phúc… “Tuị nó tràn ngập vị trí, tôi phá súng!!”

Và cuộc hỗn chiến trong đêm bắt đầu. Tiếng súng lớn đồng im bặt, tiếng súng nhỏ cũng không còn, chỉ âm động của da thịt người bị xé rách, đâm nát, vỡ nhầy dưới xích xe tăng. Trong bóng tối chập chờn tàn lửa, nghi ngút khói của những trận pháo càn từ bao ngày qua, từ giờ trước…Những bóng người nhào vào nhau, tìm đường chạy hoặc cách giết người hiệu quả để được lần sống sót. Phúc hằng tiên liệu rõ tình huống tuyệt vọng gớm ghê nầy, nên anh đã ra lệnh cho toàn đơn vị “tay áo phải xắn cao, tay áo trái thả dài xuống”, làm dấu hiệu nhận bạn giữa đêm tối, vượt nỗi chết. Và từ vũng sâu cảnh điạ ngục trần gian kia, người ta nghe rõ tiếng hét lớn lập lại nhiều lần… “I’m crazy buffalo battalion commander, đ..m.. .tao ground chief... go ahead, do it please…”

Bầu trời, mặt đất cùng bị vỡ tung, những quả bom chạm nổ ngay khi vừa rời khỏi cánh tàu bay. Phúc nương theo đợt dội bom, hứng đủ trận bom, bảo vệ bộ chỉ huy lữ đoàn, tiểu đoàn 2 pháo và đơn vị rút khỏi căn cứ. Trong bản ghi dữ kiện của máy bay, toạ độ Phúc yêu cầu dợi bom cũng là toạ độ của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A TQLC mà Hạm Đội 7 đã yểm trợ từ bao ngày qua.

Bốn giờ sáng, Phán, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 TQLC từ trên đỉnh ngọn Cô-rốc, đỉnh núi cao nhất vùng, nhìn suốt hai bên sường Đông, Tây Trường Sơn, lắng nghe tiếng nói khẽ, đứt khúc của Phúc… “mầy… mầy thắp đèn cầy (trái sáng), tao dẫn tụi thằng 4, 7 và con cái tao về...”.

Chín giờ sáng hôm sau, Phán xuống núi, Phúc đang dìu Đại Tá Thông bước chập choạng. Giữa đám quân tan tác, Phúc là người nhỏ, thấp, gầy nhất. Nhưng quả tình anh là người cao, bền hơn hẳn. Như Người Lính không hề chết. Và nếu họ có mất đi hình hài cũng chỉ để Tổ Quốc hằng muôn thuở tồn sinh.

Tổng kết trận Hạ Lào, Trung Tá Pháo Binh Nhảy Dù Bùi Đức Lạc nhận xét: “Máu của Người Lính đã đổ xuống Hạ Lào, thịt xương họ không vun trồng màu mỡ quê mẹ mà làm tươi tốt cho đồng, rừng xứ người. Nhưng đau thấm thía, lâu dài hơn khi trận Hạ Lào bị cơ quan truyền thông ngoại quốc che mờ bằng màn khói bại trận, lại được tô son chuốc lục bởi phóng viên người Việt với màu tang trắng quê hương...”

Hậu Từ

Hôm nay bốn mươi-bốn năm qua (1971-2015) kể từ buổi binh đao tàn khốc kia, Thắng, Bại; Công, Tội của những bên lâm chiến đã được lịch sử chứng minh. Chỉ riêng Người Lính - Những Người Lính không trở về - Những Người Lính sống sót cùng Nỗi Đau không hề chấm dứt với khổ nạn Quê Hương. Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù Nguyễn Văn Thọ là một trong những người lính phẫn hận kia.

Sau lần sống sót dưới cơn bão dữ đạn bom của cả hai phía, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Trung Tá Trần Văn Châu, Thiếu Tá Trần Văn Đức, các Đại Úy Lê Đình Châu, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Quốc Trụ... thuộc bộ chỉ huy Lữ Đoàn 3, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh ND được lệnh di chuyển ra Bắc với chân trần, trên thân người vết thương còn tươi máu. Tại Hà Nội, họ được đưa ra trình diện báo chí (của miền Bắc và khối cộng sản) để làm cớ chứng: Quân đội Mỹ-Ngụy tấn công lãnh thổ của nước Lào (gọi là) trung lập. Đồng thời viên cán bộ chính trị cao cấp điều hành buổi họp báo cũng lên tiếng: "Cực lực bác bỏ lời tố cáo của báo chí miền Nam: "Cộng sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam qua ngã Lào (!!)" Đài phát thanh Hà Nội lớn tiếng rêu rao: "Trận chiến Đường 9 Nam Lào là một đòn sấm sét của lực lượng nhân dân yêu chuộng hòa bình của ba nước nước Đông Dương đã đoàn kết chiến đấu, đập tan âm mưu của tập đoàn thực dân mới Mỹ nhằm mưu định chiếm đóng Đông Dương mà ngụy quyền Sài Gòn là tay sai đắc lực nhất."

Lời cáo buộc được cả thế giới "tin cậy" nên từ Hội Nghị Paris (1968-1973) trở về Hà Nội, bí thư Xuân Thủy được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến do những nổ lực gọi là "tái lập hòa bình ở VN" của y ta đại diện cho Hà Nội tại bàn hội nghị. Chưa hết, thế giới lại "rất sáng suốt" trao giải Nobel (gọi là) Hòa Bình cho Lê Đức Thọ. Đây cũng là viên bí thư chiến dịch Hồ Chí Minh lần tiến chiếm Sàigòn (4/1975) với 16 sư đoàn bộ binh cộng sản Bắc Việt như lời than vãn của Kissinger, kẻ đồng nhận giải Nobel Hòa Bình với Thọ.

Trong chiều hướng "tin cậy đối với cộng sản Bắc Việt", Hiệp Định Ba Lê ký kết ngày 27 Tháng 1, 1973 đã long trọng xác nhận "Hai bên miền Nam Việt Nam trao trả cho nhau những nhân viên quân sự được bắt giữ... " Với định nghĩa nầy, toàn bộ các sư đoàn bộ binh, khối lượng vũ khí khổng lồ gồm xe chiến xa, đại pháo của cộng sản miền Bắc nơi mặt trận Hạ Lào đồng được "hóa không" để trở thành "quân đội giải phóng Lào yêu nước" hoặc của "lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam"! Và hệ quả tiếp theo là: "Không có tù binh VNCH nào của mặt trận Đường 9 Nam Lào trong danh sách trao trả theo Nghị Định Thư về Tù Binh của Hiệp Định Paris 1973.”

Văn bản được long trọng ký kết trước cộng đồng thế giới, được 13 nước ký Định Ước Bảo Đảm Thi Hành bao gồm Liên Xô, Trung Cộng! Màn dối gạt ngang ngược vô liêm sĩ đối với thế giới tiếp tục hiện thực trong Ngày 30 Tháng 4, 1975 với sự đồng thuận của chính phủ Mỹ. Cuối cùng, chỉ một năm sau, 1976, nhóm người tù miền Nam trong một buổi đi ra Đoàn (Đoàn 776) ở Yên Bái để lãnh gạo. Chúng tôi nhận ra người tù Hạ Lào: Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, Trung Tá Trần Ngọc Huế, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/2/SĐ1BB và nhiều anh em tù binh khác thuộc các binh chủng TQLC, BĐQ, BB, Thiết Kỵ, đông đảo nhất là những Biệt Kích Quân, tổng số của những tù binh VNCH rơi ra ngoài danh sách trao trả theo Hiệp Định Paris. Đại Tá Thọ giữ nhiệm vụ chăn nuôi, Trung Tá Huế dầm suối chuyển cây gỗ... Chúng tôi đứng nghiêm chào kính: Chào Đại Tá! Ông trầm giọng buồn phiền: Các em cố gắng nghe! Vâng, tụi em cố gắng!

Năm 1996, người viết qua Úc, nói chuyện ở Sidney, gặp lại Người Lính Nhảy Dù không mệt mõi, đến góp tiếng với "thằng em". Tôi khám phá ra một điều cao thượng bất biến: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8; Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 ND; Tù Binh Hạ Lào; Người già tỵ nạn nơi đất Úc... Tất cả luôn ở trong một tình trạng "cố gắng".

Nhảy Dù Cố Gắng! Đích Thân về cõi Phật bình an (*).

Thiếu Úy Phan Nhật Nam
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, KBC 4919


(*) Đích thân: Người Chỉ Huy - Ám danh đàm thoại của các đơn vị tác chiến nhảy dù.

Phải chăng lòng yêu nước đã tới hồi mệt mỏi

Phải chăng lòng yêu nước đã tới hồi mệt mỏi

Trần Trung Đạo

Như một thói quen, buổi sáng 15 tháng 9, tôi vào mạng CNN, lướt qua một vòng tin nước Mỹ, tin thế giới và dừng lại ở các tin Đông Nam Á. Sáng hôm đó CNN loan tin Trung Cộng đang xây phi đạo thứ ba trong vùng đảo Trường Sa đang tranh chấp. Theo CNN, các hình ảnh do vệ tinh Mỹ chụp được vào ngày 8 tháng 9 cho thấy Trung Cộng đang xây một phi đạo mới dài 3 ngàn mét dọc theo Mischief Reef. Trước đó Trung Cộng đã xây dựng xong hai phi đạo trên Fiery Cross Reef và Subi Reef cũng có chiều dài tương tự.
 
Greg Poling, Giám Đốc Trung Tâm Quốc Tế Nghiên Cứu Chiến Lược đặt tại Washington DC cho biết nếu quả thật đúng là phi đạo, Trung Cộng sẽ có ba phi đạo để dùng cho bất cứ loại phi cơ chiến đấu nào của Không quân Trung Cộng.
 
Phi đạo dùng cho phi cơ chiến đấu Trung Cộng J-11
 
Trong 18 tháng qua, theo giới chức Mỹ, Trung Cộng đã chiếm thêm 2 ngàn mẫu thuộc khu vực quần đảo Trường Sa đang tranh chấp. Các nước tranh chấp như Việt Nam, Philippines cũng có phi đạo nhưng không phi đạo nào thích hợp cho chiến đấu cơ thuộc thế hệ thứ tư, tức những chiến đấu cơ sản xuất khoảng từ 1980 tới nay.
 
Trước đó, theo phân tích “China's J-11 fighter jet 'may find new role in South China Sea” đăng trên tờ South China Morning Posts phát hành 21 tháng 6, 2015, cũng nhấn mạnh những phi đạo dài này có thể được xây dựng với ý định để các J-11 có tầm bay xa 1500 kilomet sử dụng. Loại chiến đấu cơ này, được nâng cấp từ Sukhoi Su-27SK, sản xuất lần đầu 1998 không phải là chiến đấu cơ tốt nhất của Trung Cộng và dĩ nhiên không phải là đối thủ của những chiến đấu cơ thuộc các nhóm F-18, F-22, F-35 của Mỹ nhưng là một đe dọa trực tiếp đối với an ninh của các quốc gia đang tranh chấp chủ quyền Trường Sa.
 
Lãnh đạo CSVN im lặng
 
Lãnh đạo CSVN, lẽ ra, dù nói không ai nghe cũng phải nói, dù la không ai nghe cũng phải la, dù kiện chưa chắc đi tới đâu cũng phải kiện. Biển Việt Nam, đảo Việt Nam, không một nước nào có quyền xây dựng phi đạo quân sự trên vùng đảo chỉ cách Cam Ranh 470 kilomet và cách Sài Gòn chưa đến 600 kilomet đường chim bay. Nhưng ngoài một số báo chí Việt Nam dịch lại các bản tin quốc tế, cho đến nay lãnh đạo đảng đã chọn thái độ “im lặng là vàng”. Không một lời phản đối, không tuyên ngôn, tuyên cáo, không đưa vấn đề ra trước dư luận quốc tế.
 
Chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng mà các báo chí đảng đánh bóng như là “bước đột phá lịch sử” hay “một mốc lịch sử trong quan hệ Việt – Mỹ” v.v. thực tế chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền.
 
Như đã trình bày trong bài Lãnh đạo CSVN trong quan hệ Mỹ Trung, chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng rồi cũng như bao nhiêu chuyến đi trước của các lãnh đạo CS, sẽ không có gì thay đổi. Ngoài Biển Đông, máu của ngư dân Việt Nam đã đổ và sẽ tiếp tục đổ. Trong lòng biển, nguồn dầu khí Việt Nam ngày càng bị vét cạn. Trên đất liền, tài nguyên thiên nhiên bị Trung Cộng khai thác sẽ còn tiếp tục bị khai thác.
 
Chính sách của Trung Cộng tại Biển Đông cũng không vì áp lực cua Mỹ trong thời gian qua mà thay đổi. Chúng biết ngoài việc gia tăng sự hiện diện của hải quân hay vài chuyến bay thấp trong vùng, Mỹ không có chọn lựa nào khác. Những ai cho rằng Mỹ sẽ đem các chiến đấu cơ tối tân để can thiệp một khi Việt Nam bị không quân Trung Cộng tấn công chớp nhoáng có lẽ là những nhận định quá lạc quan. Mỹ can thiệp hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố an ninh và quyền lợi trực tiếp. Các mâu thuẫn Mỹ-Trung có đó nhưng còn quá sớm cho một cuộc xung đột quân sự giữa hai nước này có thể xảy ra trong vùng Biển Đông.
 
Chính sách đối ngoại của Trung Cộng là chính sách ngoại giao của những kẻ có đầu óc ti tiện. Chúng hành xử như cách loài chuột đồng tàn phá mùa màng qua việc gặm nhấm từng bụi lúa. Một mặt chúng lớn tiếng với quốc tế là luôn theo đuổi chính sách “hòa bình” và “ổn định” nhưng mặt khác lấn chiếm từng thước đất, từng bãi san hô, từng hòn đảo nhỏ trên biển Đông, đặt những giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam và hôm nay xây những phi đạo dài trên các vùng biển Trường Sa đang tranh chấp. Những hành động nhỏ nhen này không đủ va chạm quyền lợi nặng đến mức các cường quốc phải đặt vấn đề và các biến cố do chúng gây ra không đủ tác hại an ninh khu vực đến mức quốc tế phải quan tâm nhất là trong gia đoạn bất ổn kinh tế thế giới hiện nay.
 
Trong thời gian ngắn trước và sau chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng, một số nhà phân tích cho rằng Việt Nam là một góc trong tam giác cân về thế đứng trong tranh chấp Biển Đông. Nhận xét đó không đúng. Lịch sử bang giao quốc tế cho thấy, muốn đứng thế chân vạc, một quốc gia trước hết phải có vị trí độc lập trong tương quan về chính trị, kinh tế và quân sự quốc tế. Để đương đầu với một kẻ thù mạnh hơn, một quốc gia nếu không có đủ lực, phải có đủ thế.
 
Bài học Lithuania và Ukraine khi đương đầu với Nga
 
Có ít nhất hai bài học về thế và lực hiện còn đang là vấn đề thời sự quốc tế nóng bỏng cần được lưu ý: Cách hành xử của Lithuania và của Ukraine đối với chính sách bành trướng của Nga.
 
Trường hợp Lithuania. Sau khi sáp nhập Crimea năm ngoái, Nga đang nhắm đến các quốc gia nhỏ khác vùng Baltic. Cuối tháng 6, 2015, Bộ Tư pháp Nga cho rằng việc ba quốc gia Baltic gồm Lithuania, Latvia và Estonia tuyên bố độc lập khỏi Liên Bang Sô Viết có thể là không hợp pháp và đe dọa sẽ điều tra về sự kiện này. Tổng thống Lithuania Dalia Grybauskaitė tức khắc tuyên bố: “Nền độc lập của chúng tôi đã đạt được bằng máu và hy sinh của nhân dân Lithuania. Không một ai có quyền đe dọa. Chỉ có chúng tôi, nhân dân Lithuania mới có quyền quyết sinh vận mệnh của chúng tôi”.
 
Sở dĩ TT Dalia Grybauskaitė tuyên bố một cách cương quyết và dứt khoát không có chuyện ngồi xuống bàn thảo luận phải trái với Nga vì bà biết Nga chỉ dọa nhưng sẽ không bao giờ làm gì được Lithuania. Quốc gia nhỏ bé này đã là một thành viên của Cộng đồng Châu Âu và hội viên của NATO hùng mạnh. TT Dalia Grybauskaitė không chỉ tuyên bố cứng rắn mà còn là nước hội viên NATO đầu tiên tình nguyện gởi vũ khí viện trợ Ukraine chống Nga và kêu gọi các quốc gia hội viên NATO khác làm theo.
 
Các thế hệ lãnh đạo Lithuania nhìn xa thấy rộng. Từ 1990, các lãnh đạo Cộng Hòa Lithuania vừa được hồi sinh đã thẳng thắn từ chối đề nghị của TT Nga Boris Yeltsin để tham gia vào Thịnh Vượng Chung của Các Quốc Gia Độc Lập (Commonwealth of Independent States) trong vòng ảnh hưởng của Nga. Các lãnh đạo Lithuania ngày đó, dĩ nhiên, cũng cảm thấy cay đắng nhìn lại giai đoạn lịch sử đầy đau thương tang tóc khi quốc gia nhỏ bé này bị Anh, Mỹ bỏ rơi sau Thế chiến Thứ hai, nhưng thay vì sống ray rức trong quá khứ, họ dứt khoát đứng về phía Tây phương vì tương lai con cháu họ.
 
Trường hợp Ukraine thì khác. Các lãnh đạo Ukraine thiếu khôn ngoan và tầm nhìn nên vào ngày 8 tháng 12, 1991 đã tự đeo cái vòng kim cô Nga lên đầu khi cùng với Nga và Cộng Hòa Belarus sáng lập nên tổ chức Thịnh Vượng Chung của Các Quốc Gia Độc Lập. Vết thương do vòng kim cô Nga gây ra đến nay vẫn chưa lành.
 
Nước Việt Nam Cộng Sản không so sánh với Lithuania về cả thế lẫn lực. Lãnh đạo CSVN là một đám mù lòa theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
 
Thật vậy, giữa lúc số phận của đất nước như chỉ mành treo chuông lãnh đạo đảng thay vì tập trung ngân sách vào việc tăng cường quốc phòng lại lo đi xây những tượng đài tôn thờ lãnh tụ mà các quốc gia cựu CS đang khổ sở không biết làm sao đập đổ cho hết.
 
Giữa một đất nước còn quá lạc hậu về mọi mặt, nghèo đói, tụt hậu kỹ thuật so với các quốc gia tiên tiến hàng thế kỷ, lãnh đạo CSVN chỉ biết ăn, biết tham nhũng, biết sống xa hoa trên máu xương đồng bào. So sánh cảnh trang hoàng nội thất của cựu TBT CS gốc thợ rừng Nông Đức Mạnh và cảnh hàng ngàn học sinh khắp ba miền phải lội sông đi học mỗi ngày để thấy các lãnh đạo CSVN quả thật đui về thị giác và mù tận đáy lương tâm.
 
Nhưng chỉ nguyền rủa lãnh đạo CSVN không cứu được đất nước. Để cứu nước phải tập trung tháo gỡ cơ chế độc tài đảng trị CS ra khỏi đời sống chính trị đất nước từ đó xây dựng một Việt Nam tự do, dân chủ và phát triển toàn diện phù hợp với thời đại văn minh dân chủ.
 
Chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ mới thật sự tập trung được sức mạnh tổng hợp của dân tộc, trong và ngoài nước, để bảo vệ đất nước và làm nền tảng cho một quốc gia dân chủ thịnh vượng lâu dài. Không những thế, dân chủ phải đến sớm, không thể đợi đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến.
 
Một trong những lý do Cộng Hòa Lithuania sớm trở thành hội viên NATO dù với một quân đội hiện dịch chỉ vỏn vẹn 15 ngàn người bởi vì quốc gia này cam kết xây dựng một chế độ dân chủ toàn diện. Lithuania có dân chủ trước Nga và các quốc gia thuộc khối Liên Xô cũ nên tránh được vòng ảnh hưởng của Nga và các biến động gây bất ổn trong vùng. Ngày nào Việt Nam còn nằm dưới sự cai trị của đảng CS, ngày đó đừng hy vọng gì để trở thành một Lithuania ở Đông Nam Á.
 
Phải chăng lòng yêu nước đã tới hồi mệt mỏi?
 
Ba phi đạo quân sự của Trung Cộng, về lâu dài, có tác hại trầm trọng hơn nhiều so với việc Trung Cộng bắn thủng tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam nhưng không phải người dân nào cũng biết, cũng hiểu, cũng lo.
 
Lẽ ra, đây là cơ hội cho những tiếng nói có trách nhiệm của người Việt quan tâm đến tiền đồ đất nước gióng lên một cách công khai, thẳng thắn và rộng rãi trước hiểm họa bành trướng của Trung Cộng. Nhưng một điều đáng buồn, không những lãnh đạo CS im lặng mà những tiếng nói yêu nước cũng thưa thớt dần. Đừng nói chi các cuộc xuống đường phản đối Trung Cộng mà ngay cả những bài báo, bài bình luận trong các mạng “lề dân” thảo luận về vấn đề sinh tử này cũng rất ít. Phải chăng lòng yêu nước đã tới hồi mệt mỏi?
 
Có thể. Nhưng xin đừng bỏ cuộc. Vẫn biết, con đường tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ và cường thịnh đã khá dài và có thể còn dài, nhưng phải kiên nhẫn và tiếp tục đấu tranh. Một trong nhiều đặc điểm của văn hóa Việt là tính kiên nhẫn. Một ngàn năm trong bóng tối nô lệ của các triều đại Tàu nhưng lòng yêu nước như ngọn đèn soi rọi tâm hồn, nuôi dưỡng niềm hy vọng phục hưng để hôm nay trên bản đồ thế giới còn một Việt Nam.
 
22/9/2015
 
Trần Trung Đạo

Saturday, September 19, 2015

Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường

Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường 


Nguyễn Văn Lục

hueMột cách tình cờ khi viết bài này về Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi đọc được số báo mới nhất của National Geographic, tháng 8, 2015. Tờ báo đã dành một sự trang trọng hiếm có khi viết về Huế. Trong đó có bài: À la découverte de la ville d’Huê, l’âme du Viêt Nam(1). Khám phá thành phố Huế, linh hồn của Việt Nam.
Hoàng Phủ Ngọc Tường: “đùa thôi nhé.” Không. Xin đừng giỡn mặt với sự thật

Hình: Dân vạn đò ở sông Hương sống cả đời trên thuyền của họ, những chiếc thuyền ba ván, đáy phẳng nhỏ. Những gia đình nghèo sống bằng nghề đánh cá và khai thác cát trái phép bên sông. © Maika Elan
Dân vạn chài ở sông Hương sống cả đời trên thuyền của họ, những chiếc thuyền ba ván nhỏ, đáy phẳng. Những gia đình nghèo sống bằng nghề đánh cá và khai thác cát trái phép bên sông. © Maika Elan
Có phải Huế thật sự là như thế không? Thưa cũng có thể phải. Đất nước đang có những chuyển mình đến chóng mặt mà văn hóa, đạo đức nay trở thành sự thách thức cho 90 triệu người Việt Nam.
Vậy mà Huế vẫn lặng lờ những bước đi chậm chạp đổi mới. Quá khứ các triều đại vua quan nhà Nguyễn từ 1802 vẫn còn lởn vởn có mặt như gợi nhớ một kỷ niệm cả một thời không dễ dàng bỏ đi được.
Thật vậy, Huế vẫn có thể là linh hồn của một số ít ỏi con dân Việt Nam còn sót lại mà cá tính con người chưa kịp thay đổi. Vì thế, đến Huế không thể không ghé thăm lăng tẩm thành quách cũ như lăng Khải Định để tìm lại cái ‘Vang bóng một thời”.
Nhưng thật sự về mặt lịch sử chính trị thì Huế lại là một miền đất với nhiều bất hạnh từ hơn một nửa thế kỷ nay.
Một nỗi bất hạnh lớn của Huế có tên là Tết Mậu Thân đi kèm theo một số tên tuổi một thời như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT), Lê Văn Hảo.
Lê Văn Hảo hiện nay ở Pháp có lẽ đã sáng mắt, sáng lòng. Nhưng còn lại Nguyễn Đắc Xuân và nhất là HPNT thì xem ra vẫn vậy.
Nhân dịp này, tôi xin trích một bài thơ của con gái HPNT tặng lại HPNT. Bài thơ của Hoàng Dạ Thi, trong tập thơ Cái Chuông Vú, có bài thơ Mở cửa ra.(2)

Bài thơ như thế này:

Mở cửa ra cho sáng bầu trời
Mở cửa ra cho sáng ba
Mở cửa ra.
Đối với tôi, còn một cái cửa cần được mở sáng cho HPNT. Đó là cái cửa soi sáng cõi lòng của HPNT. Cho đến hiện nay, hình như đã quá trễ để mở ra?
Tưởng câu chuyện về sự có mặt của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế, dịp tết Mậu Thân là chuyện không cần bàn cãi nữa, vì chính ông HPNT khi trả lời phỏng vấn năm 1982 cho WGBH-TV Boston của Mỹ. Ông đã công khai xác nhận sự có mặt của ông ở Huế. Ông đã nhìn nhận đã dẫm lên máu, mà ông đã ngỡ là bùn khi chưa bật đèn, sau trận bỏ bom của Mỹ vào một bệnh viện ở gần chợ Đông Ba.
Vậy mà nay lại có thêm bài chuyện trò khá dài của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng với HNNT, được biết là, sức khỏe hiện nay rất nguy kịch.
Bài nói chuyện có nhan đề: Đùa thôi nhé, thiên đường mộng ảo… Trong đó một lần nữa, HPNT cũng muốn một lần nữa xác nhận, Tôi không có mặt ở Huế. Tôi không có liên quan gì đến Huế.
Tại sao có thể nói lật ngược như thể nói đùa như thế được?
Lần này hy vọng những người bạn thân của HPNT như ông Ngô Minh, Nguyễn Đức Tùng có dịp nghe chính giọng HPNT trong, WGBH-open vault thì sẽ phải nghĩ thế nào?
Bài trả lời phỏng vấn HPNT của bà Thụy Khuê
Khách du lịch chụp ảnh bên lăng vua Khải Định, phía nam Huế. Khải Định, Hoàng đế thứ mười hai của triều Nguyễn, đã được người Pháp đưa lên ngôi vào năm 1916. Bên trái là các bức tượng quan chức triều Nguyễn. © Maika Elan
Khách du lịch chụp ảnh bên lăng vua Khải Định, phía nam Huế. Khải Định, Hoàng đế thứ mười hai của triều Nguyễn, đã được người Pháp đưa lên ngôi vào năm 1916. Bên trái là các bức tượng quan chức triều Nguyễn. © Maika Elan
Trước tiên, nhân dịp Hoàng Phủ Ngọc Tường được sang Pháp vào tháng 7, 1997. Ông được bà Thái Kim Lan tài trợ cho sang Đức, sau đó mới sang Pháp.
Nhân dịp ở Pháp, phóng viên Thụy Khuê đài RFI đã dành cho Hoàng Phủ Ngọc Tường một cơ hội để trình bày quan điểm liên quan đến tết Mậu Thân và nhất là để biện minh cho việc Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không có mặt ở Huế. Đồng thời, ông Tường có dịp đáp trả những người tố cáo ông.
Trong dịp này, HPNT đã nói:
“Không hiểu sao đến giờ vẫn có kẻ xấu miệng cứ tìm cách buộc chặt tôi vào vụ Mậu Thân Huế. Đúng, Mậu Thân Huế đã trở thành một bi kịch đời tôi. Tôi đành xem họ như những kẻ vu khống bẩn thỉu thế thôi.”(3)
Ông cho rằng: Mậu Thân Huế trở thành bi kịch đời Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vì bị những kẻ xấu miệng bôi xấu!
Ông chỉ bị bôi xấu mà đã trở thành bi kịch đời ông. Vậy thi vài ngàn người Huế ‘vô tội’ chết oan thì là bi kịch của ai? Lê Hữu Bôi, chủ tịch sinh viên Sài Gòn tội gì mà bị lôi từ trong chùa ra xử tội? Có thật sự các giáo sư Y Khoa người Đức là do bom Mỹ bỏ hay do “quân giải phóng” giết hại như bà bác sĩ Quế khẳng định?(4)
Hay ngược lại, Mậu Thân Huế là bi kịch của những gia đình có anh em, chồng con, cha mẹ đã bị thảm sát trong dịp ấy?
Cũng trong bài phỏng vấn này, ông nói thêm:
“Ông là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn. Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966 và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975.
Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu thân 1968, tôi không có mặt ở Huế.”(5)
“Điều quan trọng còn lại, tôi xin tỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và đã trở về; ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu cho hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào năm Mậu Thân.
Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc và nhìn từ quan điểm chiến tranh cách mạng.”(6)
Bà Thụy Khuê cũng đặt một câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến sự có mặt của HPNT ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân:
“Về một lời tuyên bố của anh trong một phóng sự chiếu trên đài truyền hình Mỹ, Anh, Pháp mà nhiều người đã dựa vào đó để đả kích anh. Anh đã tuyên bố những lời ấy trong trường hợp như thế nào? Tại sao?”
HPNT trả lời:
“Hồi đó, ông Burchett và đoàn làm phim “Việt Nam, một thiên lịch sử truyền hình”(7) tới Huế, chọn tôi để chất vấn về chuyện tang tóc của Huế Mậu Thân. Tôi nhớ một cách đại thể là tôi đã nói về ba thành phần nạn nhân khác nhau: 1) Những người chết do hành động trừng phạt của quân giải phóng dành cho những người thực sự có tội; 2) Những người bị giết oan; 3) Những nạn nhân chết do Mỹ ném bom vào đám đông hoặc quân chính phủ bắn giết trả đũa khi phản kích. Cả 3 trường hợp này đều có thực, chết nằm xen kẽ nhau trên các đường phố Huế Mậu Thân.
Lâu rồi trả lời ứng khẩu thế thôi, tôi không nhớ thật cụ thể những điều đã nói, và cũng không có dịp xem lại nguyên bản phim như nó đã được chiếu ở nước ngoài, nên không biết cuốn phim có tái hiện trung thành những ý tưởng của tôi hay không.”(8)
[DCVOnline | Thực ra ông HPNT nói rất nhiều trong cuộc phỏng vấn dài 15’11” trong đoạn phim tài liệu gốc của WGBH-TV Boston. Tuy nhiên khi trở thành phim “Vietnam: A Television History” thì đoạn phỏng vấn của HPNT chỉ còn lại 29 giây – Từ 16’17” đến 16’46” trong Vietnam: A Television History (Part 7) – ‘Tet 1968’. Ông HPNT có thể xem lại đoạn phim phỏng vấn gốc của ông với WGBH-TV Boston ngày 29 tháng 2, 1982 tại đây để xem “phim có tái hiện trung thành những ý tưởng” của ông đồng thời đánh giá về sự trung thực của tài liệu.]
Trong phần trả lời này, ông đã nhìn nhận có một số nạn nhân chết do sự trừng phạt của quân giải phóng cho những kẻ thực sự có tội.
Họ là ai? Những kẻ thực sự có tội, thưa ông.
Còn ngoài ra ông không nhớ nữa. Không nhớ hay không muốn nhớ!
Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn
Để chứng tỏ rằng, người ta không vu khống cho ông. Mời bạn đọc theo dõi nguyên đoạn phim 15 phút của WGBH-TV Boston phỏng vấn HPNT ngày 29 tháng 2, 1982, “Interview with Hoang Phu Ngoc Tuong, 1982”(9) sau đây để thấy rõ ai là nạn nhân của ai?

Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời WGBH-TV Boston
Trích đoạn:
“Tôi đã đi trên những, những đường, đường hẻm mà ban đêm. Tôi tưởng là bùn, thì tôi mở ra, bấm đèn lên thì toàn là máu, lầy lội như vậy…Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra…” 5’57”- 6’14”
Giọng điệu năm 1997 của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi được Thụy Khuê phỏng vấn thật khác xa với giọng điệu “khát máu” trong con người Hoàng Phủ Ngọc Tường năm 1982. Điều này tạo thành một vấn nạn, có ai tin được những điều Hoàng Phủ Ngọc Tường nói không?
Nếu quả thực Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quên thì đây là dịp để ông nhớ lại từng câu, từng chữ một qua cuộc phỏng vấn của WGBH-TV vào ngày 29/2/1982.
Nhưng mọi chuyện bao che, nói quanh của Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành sự khôi hải đáng xấu hổ khi chúng ta cùng nhau xem lại cuộc phim tài liệu gốc mà WGBH-TV đã phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường đầy đủ chi tiết hơn rất nhiều so với một đoạn quá ngắn trong bộ phim tài liệu nhan đề “Viet Nam: A Television History”, (Part 7), ‘Tet 1968’. Published as a companion volume to “Vietnam: A Television History.” a 13–part documentary film series for the PBS network produce by WGBH Boston, in cooperation with Central Independent Television/ United Kingdom and Antenne–2/France, and in association with LRE Production.
Trong bộ film của WGBH-TV này, Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện như một người cộng sản sắt máu, ngôn ngữ hận thù.
Đó là thái độ của một người cộng sản chính hiệu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường lộ nguyên hình là kẻ nói dối khi ông kể rằng chính ông ta chứng kiến cảnh dội bom của Mỹ vào một bệnh viện gần chợ Đông Ba làm chết và bị thương 200 người mà đêm tối anh ta đã dẫm lên và tưởng là đám đất bùn nhưng thật ra là máu và xác người chết.
Nguồn:
“Tôi nói riêng về vụ thảm sát là một vụ mà Mỹ đã đưa ra làm như là một cái bửu bối để đưa ra bàn Hội nghị Paris, để bội nhọ cách mạng Việt Nam. Đây là những điều mà tôi biết như là một người chứng nhân.” 2′-2’19’. (“This was something I knew very well because I was a witness”: phần dịch sang Anh ngữ của WGBH-TV ). Nguồn: WGBH Media Library & Archives. Web. September 14, 2015.
Như thế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đương nhiên xác nhận ông có mặt ở Huế. Như một nhân chứng.
Thế là đủ rồi. Còn có mặt ở Huế để làm gì lại là chuyện khác. Nhưng vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân là gì?
May mắn là chúng ta cũng được nghe cuộc phỏng vấn bà bác sĩ Phạm thị Xuân Quế, một Việt Cộng nằm vùng, với đài WGBH-TV(10). Những vai trò đó có phải là dẫn đường và làm điểm chỉ viên trong việc giết hại những giáo sư đại học, tu sĩ, sĩ quan, sinh viên và công chức VNCH trong cuổng tổng tấn công Tết Mậu Thân?
Ai đã cung cấp danh sách những nạn nhân có thể bị giết hại như trong nhận xét của John Prados sau đây?
“At Hue, too, the uprising failed, the populace horrified by the massacre of betwen 2,500 and 3500 persons, mostly civilian or families of Saigon government officials. The VPA and its NLF cadrers systematicallly took away people named on lists that had been prepared by local networks. (Both sides could play at that game: The CIA‘s chief for Hue escaped with a radioman, exphiltrating through ennemy lines in James Bond style, dressed in black and carrying exotic gear. He went immediately the the command post of the Marine general leading the response force and handed him a list that, according to a witness, contained thousands of names of NLF sympathizers in the Hue area.)”(11)
Đoạn văn này một cách công bằng bắt buộc phải xếp Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phạm Thị Xuân Quế vào những thành phần tay sai chỉ điểm cho cộng sản Bắc Việt xâm nhập vào Huế dễ dàng.
Nguyễn Đắc Xuân thời kháng chiến (1966-1974). Nguồn: bachovoihue.com
Nguyễn Đắc Xuân thời kháng chiến (1966-1974). Nguồn: bachovoihue.com
Từ cái giọng Huế, thái độ, ngôn ngữ xử dụng, tự nhận là chúng tôi như người trong cuộc có trách nhiệm cho thấy con người thật của HNNT là gì?
Đôi dòng về phỏng vấn của bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế
Rất ít người được biết bà Phạm Thị Xuân Quế là ai. Bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế sống ẩn tích từ trước 1975 và cả sau 1975. Tuy nhiên theo một tài liệu đã giải mật của CIA, Văn phòng Đông Á và Thái Bình Dương Vụ, đề ngày thứ Sáu 11 Tháng Tư, 1975 do wikileaks.org công bố thì Bs Phạm Thị Xuân Quế là đại diện của Lực lượng Hoà giải Dân tộc trả lời phỏng vấn trên Đài Phát thanh Hà Nội – phần Anh ngữ. Bà Quế cho biết bà đã hợp tác với chế độ (cộng sản) mới ở Huế.(12)
Nghe những lời bà trả lời phỏng vấn trong với WGBH-TV lưu trữ ở Open Vault thì thật sự ngỡ ngàng đến không hiểu được.
Tuy nhiên qua bà Quế, tự xưng là Việt Cộng, người ta có thể hiểu được phần nào những hoạt động của những người nằm vùng, của một sinh viên, trí thức Huế.
Những kẻ được gọi là Huế giết Huế.
Trong bài viết này, chỉ xin tóm lược vài ý nghĩ rời về những điều bà đã trả lời phỏng vấn trên.
Sau đây là những lời tố cáo của bà Quế một cán bộ cộng sản, độc ác và tàn bạo.
Bà gọi những người làm việc cho chính quyền miền Nam bằng một giọng y hệt cán bộ cộng sản như:
Bs. Phạm Thị Xuân Quế, Việt Cộng nằm vùng trước 1975. Nguồn:
Bs. Phạm Thị Xuân Quế, Việt Cộng nằm vùng trước 1975. Nguồn: WGBH Media Library & Archives. Web. September 14, 2015.
– Bọn chó săn, mật vụ nó bắt đổ bàn thờ và đi theo họ. Nó tra tấn dã man. Nó bắt con phải tố giác cha mẹ.
– Nhất là các chị có chồng đi bộ đội. Nó đánh đập, tra tấn, bắt ly dị chồng, xúc phạm đến nhân phẩm phụ nữ. Nó bắt phải lấy bọn chó săn, bọn mật vụ. Tôi cho là vô nhân đạo. Điển hình là ở Quảng Nam, những người phụ nữ có chồng đi tập kết. Nó lấy bao bố, cột lại, thả xuống sông. Chúng cột 40 người, rồi trôi sông ở đập Vĩnh Trinh.
– Và chính mắt tôi trông thấy.
Bà cũng có giọng điệu sắt máu như HPNT.
Thưa bà, nếu muốn giết một người thì miền Nam không dùng kỹ thuật của cộng sản là giết rồi cho vào rọ để trôi sông. Đó là lối giết hù dọa, nhằm cảnh cáo kẻ khác như trường hợp Ba Dũng giết Nguyễn Bá Thanh. Giết một người đe dọa muôn người.
Kỹ thuật cho vào rọ, rồi thả trôi sông là kỹ thuật sáng chế “độc quyền từ thời Cách mạng tháng 8”, của cách mạng!
Miền Nam – nếu quả có giết người thì dấu diếm, đào hố rồi chôn cất kín đáo lắm.
Bắt con tố giác cha mẹ cũng là chính sách của cộng sản thưa bà. Bắt các bà có chồng đi tập kết lấy mật vụ cũng là chính sách của cộng sản bà ạ.
Tuy nhiên qua bà Quế, người ta có thể hiểu được phần nào những hoạt động của những người nằm vùng, của một sinh viên, trí thức Huế. Những kẻ được gọi là “Huế giết Huế”.
Bà Quế chạy tội cho cộng sản và sẵn sàng nói rằng trong vụ Tết Mâu Thân, 99% các nạn nhân đều do bom đạn Mỹ. Căn cứ vào đâu, bà Phạm Thị Xuân Quế có thể xác quyết như thế?
Nếu tin rằng có oan hồn, có kiếp sau, có nhân quả, bà bác sĩ Quế sẽ ăn nói làm sao với các vong linh những người đã chết?
Hóa cho nên cả bọn chỉ học được một sách của cộng sản là: Sẵn sàng nói láo, sẵn sàng vu cáo, dối trá bất kể sự thật ra sa0
Về tết Mậu thân, bà cho biết:
– 1960, phong trào bắt đầu gây dựng, phát triển năm 1963. 1968, phong trào rất phát triển rất mạnh. 90% thành viên của phong trào hướng về cách mạng. (Huế tang tóc vì những tổ chức và những thành phần nội tuyến như bà Quế này.)
– Được tin ở trên cho biết sẽ tấn công ở Huế. Mạng lưới nội thành – mạng lưới của chúng tôi – đã bí mật hoạt động hợp pháp từ 1961. Có rất nhiều cơ sở.
– Từ 23 tháng 12 đến 29/1968 các cơ sở đã đi ra ngoài vùng và gánh vũ khi dấu trong những gánh rau. Do địch chủ quan, chị em qua mặt chúng và đã đưa được vũ khí vào thành phố. [Ở Sàigon, Việt Cộng tổ chức nhiều đám ma, trong quan tài chứa vũ khí – NVL].
– Phần tôi đang ở trường trung cấp y tá, đã in một số truyền đơn. Nội dung đưa ra chính sách khoan hồng đối xử thế nào với địch.
– Mặt khác lo chuẩn bị bánh tét cho thật nhiều. Chuẩn bị cứu thương. Và may rất nhiều cờ. Trong số cán bộ 1/3 vẫn không ra mặt, tôi ở trong số đó nên chúng không biết tôi là Việt Cộng.
03 Feb 1968, Hue --- Terrified Vietnamese Civilians in City of Hue 1968 --- Image by © Bettmann/CORBIS
Người dân Huế hân hoan đón chào cách mạng. 3 Tháng Hai 1968, Hue — Terrified Vietnamese Civilians in City of Hue 1968 — Image by © Bettmann/CORBIS

– Không khí những ngày đầu tết Mậu thân: Dân chúng có bàng hoàng. Nhưng không thiếu niềm vui phấn khởi, họ đóng góp nào bánh chưng, bánh tét, yêu cầu ngụy quân, ngụy quyền ra hàng. Tôi đi xem văn nghệ.
– Đặc điểm là bộ đội giải phóng dễ thương quá, thân tình khác hẳn thái độ hách dịch của lính ngụy.
– Đến ngày mồng 7, một số đông ngụy quân, ngụy quyền ra hàng. Nhờ các anh bộ đội đã đào hộ các hầm trú ẩn nên ngụy bắn đại bác, dội bom đã có chỗ núp.
– Tôi cũng lo bảo vệ các giáo sư ngoại quốc người Đức, đang ở số 2 Lê Lợi. Nhờ đó, bộ chỉ huy đã mời các ông ấy đến ở chỗ quân đội trú đóng để bảo vệ họ. Nhưng địch đã dội bom làm chết các giáo sư ấy cũng như cả bộ đội. Địch phản tuyên truyền, bao nhiêu người chết đều là do Việt cộng tàn sát. Nhưng có thể nói 99% là do bom đạn Mỹ sát hại.
Đọc xong những đoạn trích dẫn phỏng vấn, tôi thiết nghĩ bạn đọc đủ để có thể tìm một câu trả lời về trường hợp HPNT, một trong những kẻ được gọi là “Huế giết Huế”.
Bọn họ đến nay vẫn chạy tội và sẵn sàng nói rằng trong vụ Tết Mâu Thân, 99% các nạn nhân đều do bom đạn Mỹ. Căn cứ vào đâu, bà Phạm Thị Xuân Quế có thể xác quyết như thế? Nếu tin rằng có oan hồn, có kiếp sau, có nhân quả, Bà bác sĩ Quế sẽ ăn nói làm sao với các vong linh những người đã chết?
Nạn nhân của cộng sản Việt Namtrong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân. Nguồn: LIFE
Nạn nhân của cộng sản Việt Namtrong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân. Nguồn: LIFE
Hóa cho nên cả bọn chỉ học được một sách của cộng sản là: Sẵn sàng nói láo, sẵn sàng vu cáo, dối trá bất kể sự thật ra sao.
Xin đừng ‘Đùa thôi nhé’. Xin đừng giỡn đùa với sự thật.
Tôi thấy không cần thiết phải nói thêm điều gì nữa.
© 2015 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

Nguồn: Bài và của thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ và hiệu đính.
(1) National Geographic, số tháng 8-2015, À la découverte de la ville d’Huê, l’âme du Viêt Nam, trang 38
(2) Thụy Khuê, “Nói chuyện với Hoảng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu thân Huế”, RFI, 12 tháng 7, 1997
(3) “Interview with Pham Thi Xuan Que, 1981.” 02/29/1981. WGBH Media Library & Archives. Web. September 15, 2015. Phút thứ 35.
(4) Thụy Khuê, Ibid.
(5) Thụy Khuê, Ibid.
(7) Ông HPNT có vài điểm không chính xác khi nói đến cái ông gọi là “Việt Nam, một thiên lịch sử truyền hình” là phim do Burchett thực hiện. Tên tiếng Anh của Việt Nam: thiên sử truyền hình là “Vietnam: A Television History”. Đây là bộ phim tài liệu do nhà làm phim Richard Ellison và ký giả Stanley Karnow dự tính thực hiện từ 1977 và phát hành năm 1983. Người phụ trách phần tài liệu là Tiến sĩ Lawrence Lichty, giáo sư tại Đại học Wisconsin, trong vai trò giám đốc nghiên cứu truyền thông giúp thu thập, sắp xếp và chỉnh sửa các tài liệu khác nhau, từ âm thanh và băng video, phim, hình và lời chứng thực. Tài trợ ban đầu của bộ phim là của hãng truyền hình WGBH-TV Boston và National Endowment for the Humanities (Quỹ Quốc Gia cho Nhân Văn). Tuy nhiên Liên đoàn Phát sóng Công (PBS) từ chối và do đó tài trợ sau này có được là nhờ vận động của Richard Ellison và Stanley Karnow với Britain’s Associated Television (sau này là Central Independent Television) và cùng sản xuất với with French Television (Antenne-2). Nguồn: Hannah Gourgey, VIETNAM: A TELEVISION HISTORY. U.S. Compilation Documentary.
(8) Thụy Khuê, Ibid.
(9) “Interview with Hoang Phu Ngoc Tuong, 1982.” 
02/29/1982. WGBH Media Library & Archives. Web. September 14, 2015. .
(10) “Interview with Pham Thi Xuan Que, 1981.” Ibid.
(11) John Prados, “Viet Nam, The History of an Unwinnable War”, 1945–1975, trang 240.
(12)
SAIGON MISSION NORTH VIETNAM BI-WEEKLY NO. 32. ACTION EA – Bureau of East Asian and Pacific Affairs, 1975 April 11, 12:51 (Friday