Hãy nói trước ngày chết
Trần Trung Đạo
Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày
trời đối với nhân dân Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân
Trung Quốc và Pol Pot tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng
dao phay, cán cuốc. Những chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của
chúng không còn là vấn đề tranh cãi nữa. Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có
gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở
thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của
một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một
người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến
lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa,
dao và những cách giết người tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?
Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền
lực tuyệt đối, một niềm tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý
luận để giải thích cho hành động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng
thứ hai của chế độ Khờ Me Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những
kẻ bị giết chỉ vì “họ là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất
ngon và ngủ rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.
Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng
triệu người là chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở
Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng
trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể
đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả
năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín
để làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao
bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.
Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng
của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum,
người có chồng bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm
năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là
“gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà Samrith.
Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với bà cách thủ đô
Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay kết án.
Với chủ trương “Dân tộc Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá
khứ” Hun Sen đã cản trở Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt
chủng của chế độ Pol Pot. Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan
Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi
còn trong tuổi thiếu niên. Nhiều chi tiết trong quảng thời gian từ 1975 đến 1979
của cuộc đời y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun
Sen muốn chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại
vẫn còn sống chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại
Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân
1968.
Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu
Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết
lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền
VNCH mà còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo
sư ngoại quốc. Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban
Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10
đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn.
Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây
lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô
vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ
là do cuốc xẻng.”
Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều,
từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt
Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc
Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng
xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào
ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ
đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ
tù họ. Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng,
những thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế,
thuộc từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và
đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà
ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ
mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp
trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng
đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.
Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của
nhà văn Thụy Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu
Thân: “Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng
tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3
năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở
Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết
Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở
đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống
thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình
người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt
trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ
lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách
mạng”.
Khi được hỏi ai là những người phải chịu
trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính
cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp
tục nêu thêm chi tiết chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa
nhận trong tạp chí Sông Hương “Dù bởi lý do
nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân,
trước hết là trách nhiệm của tôi.”
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành
cho nhà văn Thụy Khuê xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian
Huế bị CS chiếm đóng và những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo
cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ trương.
Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982,
trong buổi phỏng vấn truyền hình dài 15 phút dành cho hệ
thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận đang tố cáo ông là đúng,
nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi
đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì
toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...” và ông
cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người
Huế với người Huế “chính nhân dân đã căm thù
quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn, chính nó đã làm cho tất cả
gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v... và đến khi cách mạng bùng lên họ
được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như
là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây
tội ác trong chiến tranh.”
Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến
chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS quốc tế, câu trả lời
của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và sát với thực tế Mậu Thân
nhất. Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà
cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức
chảy của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường
chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được
nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn
tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó
rất nhẹ và công bằng”.
Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta
nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở
Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả
lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của
họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không
phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời giết
người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt ngào
như thế.
Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô
Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới,
Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến
nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của
một người trong cuộc.
Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ
Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến
vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, ngoại trừ trẻ em
quá nhỏ, những người bị giết chắc chắn biết người giết mình là ai.
Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông
Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào
Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm
sát Mậu Thân. Trong bài viết Nhân đọc bài "Trịnh Công Sơn - Những hoạt động nằm
vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt
động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng
chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con
người.”
Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân
trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có
xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại
trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly
chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như
Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm,
làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt
là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến
nữa...”
Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh
được ông ta không có quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược,
càng tham gia trễ càng phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết
nhiều người, càng phải lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một
người đã ngã nhưng cho thấy lời biện bạch của ông không thuyết
phục.
Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the
doubt), tạm cho những lời người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội,
tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích
cực của phong trào đấu tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế
bị rơi vào tay các ông với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách
dã man hơn cả bọn diệt chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không
thấy gì thì trẻ con ngây thơ cũng không tin được.
Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc
Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà
nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết
gì, không thấy gì, không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ.
Hãy thử đặt mình trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông
có nghĩ rằng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân đã
giết hoặc biết chắc ai đã giết thân nhân các ông các không? Chắc chắn là có,
không thể có lời giải thích thứ ba.
Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho
nhiều tác phẩm văn học lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng
bào Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư
luận kết án, nếu thật sự không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc
gió trong văn chương hay lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình
đi tìm cho ra cội nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho
chính mình. Gia đình nạn nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè
còn đó, chứng tích còn đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa
nguôi, sẽ không tin hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử
sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên
tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan
Trinh v.v... mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn đời không phai.
Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các
ông các bà có rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các
bà từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó
đây, các ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách
trả lời mà nhân dân Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là
“nhà Huế học” nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà
còn có Bãi Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác. Đời
sống của một dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những
giai đoạn đau buồn, tủi nhục. Tại sao các ông các bà không viết? Phải chăng
những người “nhảy núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me Đỏ giết chồng
bà Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ? Sự im lặng của các ông các bà
không phải là một công án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân
hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong
chỉ vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu.
Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh
sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng
quên.
Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện
trong bài viết này không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ
viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy
núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu
nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như
tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không
mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án
chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ
mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân
tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.
_____________________________________
Dân Làm
Báo - Họ tiếp tục hát trên những xác người, chối bỏ tội ác, đổ thừa
tội phạm, chà đạp lịch sử để tự vinh danh những kẻ sát nhân lẫn một chế độ sát
nhân. Và vì thế những tang thương quá khứ đành phải lật lại vì sự thật của lịch
sử:
No comments:
Post a Comment